Nụ cười
1.
Người vợ bỏ căn nhà không ra đứng ngoài hiên, buổi
sáng trời gây lạnh nhạt nhẽo, không khí chậm chạp với sinh hoạt của con
đường nhỏ đưa tới một con sông hẹp có thể nhìn thấy dãy nhà mé bên
kia. Mấy người đi lại, một người lớn tuổi đạp chiếc xe đạp cũ ngang
qua, một người tài xế hí hoáy với chiếc xe lam cũ. Bà hàng xóm bưng
thùng rác từ trong nhà ra, vượt qua đường, đổ xuống lề mé bên kia, nơi
đó, ngoài tường của một ngôi nhà lớn. Người đàn bà lắc thùng rác, đập
nó xuống, tiếng chiếc thùng thiếc kêu vang trong không khí lạnh nhạt.
Bà hàng xóm trở về, để chiếc thùng rác xuống hiên. Người vợ nói: bệnh
ông nhà cháu khó qua được tuần này, nghe thấy khác trong người hay sao
đó mà tối qua ông ấy trối trăng hết cả mọi điều rồi. Bà hàng xóm nói:
thế ông nhà còn tỉnh không - Dạ vẫn như thường, tỉnh táo lắm, nhưng coi
như hết máu rồi, bà tính, ngồi chờ bệnh đã ba năm, bệnh ung thư không
thể chữa được, bác sĩ báo ngay cho biêt như vậy, và từ ba năm nay ông
chờ chết... Bà hàng xóm nhìn ra con đường và nghe nói với nét mặt bình
thản. Bà chợt quay lại cầm lấy chiếc thùng: lâu quá rồi, bệnh gì kỳ cục
hôm tôi cũng có nghe ông nhà nói, hồi bấy giờ ông nhà vẫn như thường
nhỉ, ai nghĩ ông bệnh. - Vâng chỉ mới tháng nay ông nhà tôi mới nằm một
chỗ vậy thôi, ấy ở nhà vậy chứ ông đâu chịu nằm một chỗ, ông nằm thì
không chịu được, làm cái này cái khác, nhưng thật ra, chính nhờ ông
bệnh mà ông mới có mặt ở gia đình, hồi xưa tôi chỉ biết khóc, ông ấy
nay đây mai đó có mấy khi ở nhà, hồi thằng con trai thứ hai phải tới
năm tuổi bố nó mới nhìn được mặt, thật hồi nhỏ tôi chẳng được biết gì
về đời sống gia đình, nhà có đàn ông mà như ở góa... bà nghĩ coi. Bà
hàng xóm tép miệng, nói: cả xóm mình ai cũng lạ về ông nhà, lớn tuổi mà
vẫn trẻ trung, vui vẻ, ai cũng thương quý, người như thế thật hiếm...
Một chiếc xe chạy qua. Người vợ lặng im. Bà hàng xóm quay mặt lại: hôm
nay bà không đi chợ sao. - Tôi muốn ở nhà sợ ông nhà tôi có thế nào. Bà
hàng xóm xách thùng rác đi vào nhà, người vợ đứng im nhìn bâng quơ hai
dãy nhà và con đường đá gồ ghề. Người vợ đi trở vào. Tiếng guốc khua
động chốc lát trong gian nhà tối.
2.
Khu xóm nằm ở ngoại ô thị trấn, khi thị trấn phát
triển khu xóm trở thành một vùng đất mới, dân cư mỗi lúc một đông và trở
thành phồn thịnh, con đường ngày xưa vắng vẻ bỗng trở thành chật hẹp
lại. Biến cố lớn đến với khu xóm khi biết con đường sẽ được mở rộng.
Con đường sẽ nối với khu nhà bên kia dòng sông. Những ngày đầu tiên khi
thấy những nhân viên kiều lộ tới đo, ngắm, vẽ bản đồ thì người dân
trong xóm bắt đầu lo âu về những căn nhà bị cắt để làm đường. Nhưng
thời gian chờ đợi vẫn kéo dài, có người không tin đó là sự thật, họ
nghĩ đó chỉ là một dự án. Một vài người khôn ngoan, nhà ở ngoài mặt
đường, phỏng chừng với con đường mới nhà sẽ bị ủi đi, đã tìm cách bán
nhà đi nơi khác, công việc thường được tiến hành một cách kín đáo.
Nhưng cũng có nhà vẫn sống bình thường không lo toan, họ nghĩ dù nhà có
bị giải tỏa thì cũng sẽ được cấp nhà khác. Ngày tháng trôi qua, cuộc
sống vẫn bình thường, vẫn hai dãy nhà khác biệt ngó nhau. Một bên là
những ngôi nhà gạch khang trang, những tường vôi sáng, những tầng gác
cao mãi. Một bên là những căn nhà hẹp thấp, mái tôn, mái lá, mái ngói
chen nhau xô đẩy những đường nét hỗn độn, khu nhà này mãi sau mới có,
lúc trước trong khi đã có những căn nhà ngói ở bên kia đường thì bên này
nhiều khoảng đất không còn là bãi rác men mãi cho xuống tới lòng một
con sông nhỏ dơ bẩn ăn thông vào một miệng cống lớn từ phía trung tâm
thành phố đưa ra, mỗi lúc, theo thời gian những căn nhà lá, nhà tôn mọc
lên nhanh chóng bất ngờ. Có những bãi rác vào buổi chiều hôm trước,
sáng hôm sau người ta đã thấy có một căn nhà mới và một gia đình mới
bắt đầu cuộc sống. Những bức tường dựng lên hối hả, trong khi cuộc sống
đã bắt đầu... Theo với thời gian, với hai dãy phố qua một con đường đã
là hai hình ảnh đối nghịch. Người chồng chỉ dãy phố nói với người vợ:
bà thấy không, bỗng nhiên người ta phải chọn để sống về một phía, nào
ai có sắp xếp gì, mình thuộc khu nhà lá.
Bẵng đi một thời gian kể từ khi những nhân viên
kiều lộ tới ngắm tới đo, dân chúng bỗng như quên hẳn việc con đường có
thể mở rộng. Một buổi tối, một căn nhà trong cuối xóm bỗng bốc cháy, cả
xóm nhốn nháo, đặc kịt những người chen ngoài đường, tiếng gọi nhau ơi
ới. Một đoàn xe cứu hỏa tới nơi nhưng không làm cách nào vào được trong
con đường đã đặc những người. Mãi khi ngọn lửa đã được dập tắt người
ta mới đưa được chiếc ống nước vào tới căn nhà bị cháy. Thiệt hại không
đáng kể. Người ta nói tới việc làm của nhân viên cứu hỏa, nói về
nguyên nhân đám cháy, nói về con đường hẹp... Vài ngày sau người ta lại
xôn xao về việc con đường được mở rộng, lần này có vẻ thực tế hơn, một
chiếc xe hủ lô xuất hiện nằm ngoài đầu đường, những đống đá xanh được
đổ xuống, và cùng lúc những cọc sắt lớn được đóng xuống dòng sông nhỏ
phía cuối con đường, một chiếc phà từ ngoài sông lớn vào đó và công
việc đã khởi đầu. Người chồng nói: tôi mong sống được tới khi cây cầu
được bắc để ngang qua một lần. Người vợ mỉm cười. Chiếc xe lăn cũ kỹ
nặng nhọc vẫn nằm đó nguội lạnh cùng với những đống đá thấp dần. Ngoài
lòng sông, cuối con đường, chiếc máy chạy mỗi ngày tám giờ gieo tiếng
búa sắt chát chúa lên đầu những cột sắt lớn từ từ cắm sâu xuống lòng
sông. Tiếng động khua vang một sinh hoạt mệt nhọc. Có khi bỗng chiếc
máy ngừng nổ kéo dài cả tuần lễ. Người vợ nói: có khi phải mất mấy năm
không chừng. Người chồng lặng lẽ hút thuốc, mắt lơ đãng trên trang sách
trước mặt...
3.
Linh mục tới cửa căn nhà thì ngừng lại, ngọn đèn
dầu để trên tủ sách chiếu ánh sáng vàng lạnh không đủ sáng căn phòng im
vắng, cửa đi vào phía bên trái căn nhà, khoảng trống trước cửa, trong
cùng gần tủ sách có một chiếc ghế xếp bằng vải, bên cạnh để một chiếc
ghế đẩu thấp có một cái gạt tàn thuốc, cửa vào nhà trong nằm sát bên
tường mé tay mặt ngoài đó kê một chiếc bàn gỗ cao, mặt rộng vây quanh
có sáu chiếc ghế dựa gỗ để ngay ngắn nghiêm chỉnh, giữa bàn trên một
chiếc khăn thêu nhỏ để một chiếc bình men sứ Giang Tây bóng dáng kiêu
kỳ không có cắm hoa. Trên vách tường, đầu chiếc bàn treo một bức hình
chụp gia đình. Hai vợ chồng và ba đứa con. Vị linh mục đứng bên chiếc
bàn ngắm nghía. Hơn hai năm căn nhà không có sự thay đổi, thiếu một bó
hồng đơn sơ trên chiếc bình sứ. Vị linh mục gõ tay xuống chiếc bàn.
Tiếng động khô. Người vợ từ trong nhà đi ra, chiếc áo cánh nâu gọn
gàng, mái tóc búi cao :
- Anh lại chơi, chúng tôi vẫn có ý trông anh.
- Anh vẫn thường, chị...
- Vâng - Người vợ kéo một chiếc ghế ra - Anh ngồi chơi, nhà tôi xem chừng yếu hẳn.
- Hồi đó vị bác sĩ nói anh có thể sống ít nhất cũng
ba bốn năm nữa, năm nay anh cũng gần sáu mươi rồi còn gì, bọn chúng tôi
đều già rồi. Chị thấy...
- Dạ, năm nay anh ấy 59, hình như hơn anh hai tuổi.
- Vâng.
Người vợ cầm chiếc đèn để sang bàn, khêu lớn ngọn.
Vị linh mục cầm chiếc gương ra tay và lau vào vạt áo, những sợi tóc hoa
râm lưa thưa trên mang tai, những sợi tóc mượt dài vuốt về sau gọn
gàng. Người vợ vào nhà trong, lúc sau đỡ tay cho người chồng bước ra
ngoài. Vị linh mục đứng lên đỡ một bên tay.
- Có lẽ tôi sắp chết thật rồi anh ạ.
Người chồng nói và nhìn vị linh mục.
- Lần này tôi thấy anh yếu đi nhiều.
Người chồng được đỡ nằm xuống chiếc ghế vải. Người
vợ trở vào nhà trong bưng ra hai ly nước trà nóng rồi để lại hai người
đàn ông trong câu chuyện. Vị linh mục kéo chiếc ghế xa bàn, lùi vào
trong vách, trước mặt người chồng, cầm ly nước trong lòng hai bàn tay,
ly nước nóng khiến vị linh mục phải xoay hoài chiếc ly. Người chồng ngả
người nhìn người bạn cũ nay cũng đã già nhiều. Những nếp nhăn nơi đuôi
mắt, những sợi tóc bạc và nét mặt ưu phiền chùng mệt, bao nhiêu năm
một tinh bạn lặng lẽ nhưng thân tình, một người chọn con đường tu, một
người phóng mình ra ngoài với những náo nức lửa đỏ một thời cháy bỏng.
Có lúc tình bạn thời nhỏ biệt tăm rồi bỗng xuất hiện trong từng giai
đoạn của đời sống. Khi cuộc chiến bùng nổ. Khi người bạn lập gia đình.
Khi đứa con đầu lòng ra đời. Khi kháng chiến. Khi chứng nan y xuất
hiện. Và bây giờ, có lẽ giai đoạn chót trong cuộc đời một người... Người
chồng nói :
- Tôi thấy tôi sắp chết, chợt tỉnh táo một cách quá sức, tôi đã trối trăng với nhà tôi hết cả rồi...
- Tôi có cầu nguyện cho anh vào ngày sinh nhặt vừa rồi, thật tiếc hôm đó tôi không lại thăm anh được.
- Cám ơn anh.
Vị linh mục ngừng lại, hai tay đan vào nhau để trong
lòng áo chủng đen, mặt hơi cúi, đôi mắt lặng im nhìn xuống, người
chồng dụi tàn thuốc chậm chạp.
- Có lúc tôi nghĩ không nên nói với anh điều này,
nhưng chính lúc này tôi lại nghĩ tới điều đó, tôi nghĩ anh sẽ cho phép
tôi nói với anh và sau đó anh sẽ không phiền lòng gì cả, tôi với anh và
tình bạn thiết - vị linh mục ngừng lại, nhìn vào người bạn, ánh sáng
chập chờn và khuôn mặt nhợt nhạt, chỉ còn lại đôi mắt long lanh - anh
cho tôi rửa tội cho anh trước khi anh qua đời... tôi nghĩ, bao nhiêu
năm qua, với tuổi chúng ta, anh có lắng nghe thấy một lời kêu gọi
nào... Tôi cũng mong anh cho phép để anh an nghỉ trong đất thánh...
Người chồng lặng lẽ lắng nghe, câu nói của vị linh
mục ngừng đã lâu, tiếng chiếc đồng hồ quả lắc từ nhà hàng xóm. Người
chồng đốt một điếu thuốc. Vị linh mục uống ngụm nước trà đầu tiên.
- Tôi đã nói hết với nhà tôi. Tôi thành thật cám ơn
anh với tình bạn chúng ta có thể nói với nhau được như thế. Tôi đã xin
nhà tôi hiến xác tôi cho viện ung thư nghiên cứu. Đất thánh không phải
là nơi tôi tới. Tôi không nghe thấy một kêu gọi nào cả. Tôi biết rõ
giới hạn của đời sống, khoảng hư không cuối cùng chờ đợi, nhưng không
phải vì thế mà tôi thấy cần thiết tìm kiếm một hy vọng cứu chuộc. Tôi
chỉ có lương tâm tôi. Có tội không phải rửa mà hết được... Gần ba năm
nằm lại trong căn nhà này, bên vợ con, tôi biết giới hạn của đời sống
mình, nhưng tôi cũng không thấy có điều gì phải ân hận, nếu không muốn
nói là hài lòng. Tôi hỏi thật anh: có phải tôi là một con người kiêu
ngạo đáng ghét không?
Vị linh mục lắng nghe. Người chồng hút thuốc, cụm khói đặc trắng tan lơ đãng. Vị linh mục ngả người về sau một chút.
- Tôi xin lỗi anh.
Người chồng cười thành tiếng nhỏ :
- Người ta nói với tôi anh là một người cấp tiến mà sao anh còn câu nệ vậy, mình có thể nói chuyện thẳng thắn với nhau mà.
- Không có đâu anh, tôi không là gì đâu, tôi chỉ là
một tu sĩ bình thường vậy thôi, vì vậy tôi vẫn nghĩ có lẽ câu chuyện từ
ba mươi năm trước vẫn làm anh bực mình.
- Tôi bằng lòng với chuyện đó. Nhà tôi vẫn cầu
nguyện mỗi tối, nhưng nhà tôi không đến giáo đường nữa. Anh đừng nghĩ
chuyện riêng đó khiến tôi bực mình. Hoàn toàn không. Ngó bộ tôi không
có đạo thì tôi không phải là người sao? Ngó bộ tôi không rửa tội thì
tôi là người tội lỗi sao. Gần hết cả xã hội Tây phương đều tốt lành,
đều trở thành thánh, được vào thiên đường cả đó sao, anh ngó xem, những
tội ác ở Á Phi, ở Châu Mỹ La Tinh, những người da trắng, những người
trong hệ thống giáo hội họ làm gì, họ có nhà thờ tráng lệ, có thánh giá
bằng vàng, họ nhân danh cái này cái khác, họ đưa cả tượng Chúa tới pháp
trường... Anh đừng nghĩ tôi sắp trở thành một người chống cái này cái
khác, tôi chỉ nói, chỉ muốn nói: con người và những xấu tốt của nó, tôi
nghĩ anh hiểu tôi, sau chót của một hành trình thường người ta ngừng
lại ở một giáo đường, tôi không tin, anh có nghĩ rằng: chót hết người
ta sẽ có một thái độ khác, tôi muốn nói với anh về một tổng hợp đề...
một đức lý. Đó không phải là bây giờ, ngay trong lúc tôi còn khỏe mạnh
với tất cả tinh thần và thể chất. Có lúc người ta nghĩ mình như con múa
rối, tôi thì không, tôi chưa đối đầu với một tuyệt vọng, cả cái
chết...
- Tôi nhiều lúc... thật khó để tôi nói với anh được, cái cảm tưởng chông chênh...
Một cơn gió thổi thốc vào căn nhà im lặng, ngọn đèn
dầu phụt tắt, ánh sáng yếu ớt từ trong nhà, từ những khe vách chiếu ra
chập chờn. Điếu thuốc trên môi sáng ánh lửa đục. Người chồng nhấc lưng
khỏi ghế, gượng người :
- Anh thấy, đời sống cô quạnh của tôi, ba năm ngồi
lại sống với những người thân, tôi nhìn suốt lại đời mình và tôi mỉm
cười, bạn bè chỉ còn lại mình anh, người ở ngoài cuộc...
- Không còn ai...
- Cũng còn một hai người, nhưng bạn tôi đều đã
chết, còn lại đó là những người hèn, sống cũng như đã chết, anh nghĩ
coi, nếu còn lựa chọn, có lương tâm để đương đầu làm sao để người ta
thoát ra được một cuộc chơi vừa ngay thẳng vừa gian lận kéo dài hơn.
Tiếng bước chân nhẹ nhàng từ trong nhà ra, người vợ
đứng nơi cửa vào trong nhà, quay trở lại khi mang theo ngọn đèn nhỏ.
Vị linh mục nói :
- Con lớn của anh chị bây giờ được mấy cháu rồi?
- Dạ ba, mấy đứa nó cũng vất vả, cả năm nó về thăm
nhà được vài lần. - Người vợ châm ngọn lửa sang ngọn đèn lớn - Anh nghĩ,
thời buổi thế này, biết làm sao. Hồi sinh đứa nhỏ sau đó, giữa lúc ở
nhà thương, thị trấn bị pháo kích, vợ nó sợ đến nỗi không biết mình
sinh lúc nào. Thật tội. Nhà tôi định lập gia đình cho thằng nhỏ nữa là
xong. Thôi thì cũng nhờ trời...
Người vợ mang ngọn đèn vào nhà trong. Không khí im lặng trở lại. Người chồng nhìn người bạn :
- Nhiều lúc tôi nghĩ: mình cũng tu rồi. Giáo đường của tôi thân mật hơn của anh.
Người chồng cười thành tiếng, vị linh mục mỉm cười :
- Tôi còn nhớ bài thơ của anh gửi cho tôi khi anh còn ở ngoài chiến khu.
- Đông phương mình có một cái đạo sống kỳ diệu, các
cụ mình ngày trước ai cũng làm thơ, nhớ bạn làm thơ, nhớ nhà làm thơ,
uống rượu làm thơ, lúc chết làm thơ... Nhiều khi đâu phải thơ, chỉ là
vè thôi nhưng thực sảng khoái... Bây giờ thì mình mòn mỏi với những cái
lăng nhăng... Có khi vẽ xuống đất mà làm một nhà tù, mà đã thế rồi thì
thôi, đâu còn như trước cứ vào tới nhà tù là bọn tôi tìm cách vượt
ngục. Thật nhiều lúc tôi giật mình không hiểu vi sao mình lại có thể
sống sót.
Vị linh mục cúi xuống với bao thuốc, cầm tay ngắm nghía, đêm đang sâu dần. Vị linh mục đứng lên :
- Tôi xin phép anh, để ít bữa lại nói chuyện với anh lâu hơn.
- Anh về, tôi cám ơn anh đã lại thăm. Chắc bệnh của tôi cũng có thể qua tới mùa xuân...
Người vợ đi ra đứng nơi cửa :
- Tôi về, chị.
- Dạ, hôm trước con gái tôi nó gửi lời hỏi thăm anh.
- Dạ, cô ấy hồi này thế nào?
- Cháu nó nhớ nhà, nó còn những hai năm học nữa... Thong thả mời anh lại chơi, lâu anh không còn có dịp ăn cơm với chúng tôi.
Vị linh mục vừa nghe vừa bắt tay người chồng rồi
cúi chào người vợ trước khi dời khỏi căn nhà. Đêm ở ngoài đường với ánh
sáng vàng của mấy ngọn điện yếu. Người chồng nói: trông anh ấy hồi này
già hẳn đi, mình coi, tôi còn trẻ hơn nữa. Người vợ nói: anh ấy có vẻ
buồn, anh ấy đã tự coi như không còn gia đình từ ngày ấy. Nghe nói ông
thân anh ấy bây giờ ở trong dưỡng trí viện, con cái thì mỗi người một
ngả, người anh ở ngoài không biết thế nào, người em thì mới mất ngoài
mặt trận, tôi nghe nói mà không dám hỏi anh ấy. Bà cụ là một người
ngoan đạo, chỉ còn biết cầu nguyện... Anh ấy cũng không còn ai thân
thiết ngoài vợ chồng mình. Người chồng bưng ly nước uống rồi thắp một
điếu thuốc nằm im trong ghế...
4.
Buổi cơm tối bắt đầu sau khi người con trai thứ hai
đã trở về nhà, người chồng ngồi vào từng bát cơm, người con trai thư
cầm thư ở trên bàn, người chồng nói :
- Thư của anh con đó.
- Dạ.
Người con mở thư đọc chăm chú, người vợ nói :
- Vợ chồng nó mà mang được mấy đứa nhỏ vẻ chơi thì
vui quá, tôi vẫn muốn nó để đứa con lớn ở nhà với tôi, nhà có trẻ con
nó vui.
- Thứ nhất trẻ khóc, thứ nhì trẻ học, các cụ mình vẫn nói thế.
- Trời, cực cho anh chị ấy quá, chẳng còn thì giờ nữa...
Người con trai bỏ lá thư xuống bàn, cầm bát đũa và bắt đầu ăn. Người vợ nói :
- Các con nó hẹn về mà mãi chẳng về được, có khi con đường này với cây cầu làm xong bọn nó mới về được cũng nên...
- Thế có khi tôi chết rồi.
Người chồng cười, người vợ nhìn xuống bát cơm im lặng, người con nhìn mẹ :
- Ba mẹ thì già mà con cháu mỗi đứa một nơi.
5.
Cha tôi nói: mình nợ nhiều quá mà không trả được,
nợ từ vợ con trở đi... Mỗi lúc tôi thấy cha tôi một già đi nhưng cũng
từ đó có theo sự đằm thắm. Ngày bắt đầu được biết mình sẽ chết, giới hạn
có được khoảng ba năm, lúc đó cha tôi buồn, vẻ buồn thoáng đâu đó và
có một sự bực bội bất ngờ, nhưng ngay sau đó thì cha tôi trầm hẳn
xuống, từ đó ông không quan tâm đến, ông vui với đời sống thầm lặng và
đầm ấm trong cuộc sống gia đình. Cha tôi ngay từ nhỏ chừng như đã tự
lựa chọn cho mình một cuộc sống. Mẹ tôi là người có đạo Thiên Chúa, cha
tôi thì không. Hai người cưới nhau không tới giáo đường và bị cả hai
bên gia đình chống đối không thừa nhận. Điều này kéo dài trong nhiều
năm. Dù vậy cũng không có nghĩa mẹ tôi bỏ đạo. Cha tôi thường cùng đi
với mẹ tôi tới một nhà nguyện nhỏ. Ở trong nhà những ngày giỗ tết mẹ
tôi coi sóc rất chu đáo. Tôi lớn lên trong không khí gia đình đó. Mẹ
tôi nói, mãi khi tôi năm tuổi cha tôi mới thấy mặt con. Khi lớn lên cha
tôi cũng thường vắng nhà, ông theo đuổi những công việc riêng của ông.
Mẹ tôi lo công việc làm ăn nuôi nấng con cái. Trong những năm chiến
tranh có lúc chúng tôi tưởng ông đã chết. Nhưng cuối cùng ông đã trở
về. Những sợi tóc hoa râm giấu trong mái tóc dày mềm mại. Có nhiều lúc
tôi muốn được nghe cha tôi nói cho biết những gì ông đã sống trong suốt
những năm đó. Trong cuộc sống những lúc bên gia đình, từng thời gian
khác nhau, từng hoàn cảnh khác nhau ông nói về những đoạn ngắn nào đó
trong cuộc sống cũ. Trong những câu chuyện đó tôi nhìn thấy cha tôi với
nét mặt rạng rỡ: đời sống hào hùng trong quá khứ như những trang sách
tràn lửa đỏ. Một chiều cuối năm trên vùng Việt Bắc, trong thị trấn Lạng
Sơn có mưa tuyết, mong ước trở lại ngày Tết trong gia đình, cha tôi
nhắc đến hai câu thơ của Thế Lữ: Rũ áo phong sương trên gác trọ, lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang...
Chuyện người bạn đường trước khi chết trối trăng cho anh hai người con
nhỏ. Lúc trở về đi tìm gia đình anh ấy không biết ở đâu, thật ân hận,
bây giờ bọn đó có khi cũng chưa biết cha chúng chết rồi. Cha tôi nói về
vùng núi non Hòa Bình, ngày vào trong Trị Thiên, một đêm xuôi sông Mã,
thời ở Sài Gòn rồi lên đường đi Xiêm La, có lúc ngừng chân lại ở Đế
Thiên Đế Thích... Những ngày nằm lại trong những gia đình người Mèo...
Đất nước đối với ông thật hẹp nhỏ. Cái vận của nước mình như thế rồi.
Cứ coi cái địa thế cũng thấy, nước non gì như con trăn, có bao giờ mà nó
nằm im được, nó cựa quậy hoài. Phải gồm ba bốn xứ lại với nhau, phải
có một cách khác, cái khối Trung Hoa nó như hòn núi đè trên vai, là lực
sĩ thì cũng có lúc phải sụm, may không tan xác là phúc rồi... Cha tôi
đưa đến cho chúng tôi một thực tế, nhưng cũng đưa đến với chúng tôi một
mơ ước, đưa đến chúng tôi một thái độ phải có, phải lựa chọn trong một
tinh thần kiêu hãnh. Không được cúi đầu, phải ngẩng mặt lên ngay
thẳng. Sống như mình nghĩ... Những điều cha tôi mang đến đưa chúng tôi
tới những khó khăn. Nhưng thực chúng tôi hài lòng với sự khó khăn đó.
Những điều chúng tôi làm, cha tôi muốn chúng tôi cho biết, và ông, nếu
có ông góp ý với chúng tôi, nhưng bao giờ ông cũng để cho chúng tôi
quyết định. Hồi anh tôi lập gia đình, cha tôi chỉ hỏi anh: có thương
yêu người ta thực không? Khi bên nhà gái có ý khó khăn, ông khăn áo tề
chỉnh tới nói chuyện và mọi chuyện êm đềm... Cha tôi nói: có người nói
ba có máu làm loạn, ba nghĩ cũng có lý, nhưng thực thì đâu phải với
nghĩa xấu của nó, phải nói, ba là người bảo thủ mới đúng. Lúc trước,
khi phải bày tỏ thái độ với một việc gì cũng có vẻ một người dữ dằn,
nhưng sau rồi ông biến đổi, ông lặng im tức là thái độ của ông. Khi em
tôi lên đường xuất ngoại, ông nằm trên giường cả tuần, ông lo lắng đủ
điều, mẹ tôi nói ông khóc vì nhớ con. Lúc đó ông lo có lẽ ông không
sống được cho đến khi người con gái độc nhất trở về. Hàng tuần cha tôi
dành thì giờ ngồi viết thư cho con gái, ông thuật lại những chuyện
trong gia đình, những vấn đề thời sự, ông nói với con như nói với một
người bạn thiết, cùng đó ông khuyên con gái, ông nói: nó ở bên ấy đất
khách quê người nhất định là buồn lắm. Hồi xưa ba có lúc trông tin nhà
đến không ăn không ngủ được, một cái thư với người ở xa quý lắm. Viết
xong thư ông ngồi đọc cho cả nhà nghe rồi ông thường nói với mẹ tôi: bà
có gì nói với con gái thì nói, tôi làm thư ký cho. Ngủ trên đồi gió,
xuôi thuyền uống rượu trên sông mùa đông lạnh, ngồi nhặt những bông gạo
trong bếp mùa tháng mười... những hoạt cảnh đó cha tôi vẫn nói đến,
còn chúng tôi, chúng tôi chỉ được nghe và mơ ước. Thời các con không
vui như xưa, bây giờ sao đời sống buồn nản quá. Tôi cũng nhận thấy
chừng như thế... Có lẽ cha tôi không qua được mùa xuân, chúng tôi thấy
có một lo âu len vào nhưng với cha tôi, ông vẫn bình thường, chừng như
cha tôi đã tự mình nhìn thấy một điều gì đó. Tôi mong được sống cho tới
khi cây cầu bắc xong và con đường được mở rộng. Cây cầu và con đường
rồi chúng tôi được ngang qua. Cha tôi nói: một bên những gia đình giàu
có, một bên những gia đình lao động. Trên lý thuyết có người nghĩ nên
phá khu nhà gạch đi, có bên nói để nguyên khu nhà gạch đó nhưng phải
thay khu nhà lá bằng nhà gạch, có người thì nói: nó như thế rồi thì cứ
để nó thế. Cha không nghĩ tới điều đó, cha nghĩ đến con người, việc
chính là con người, mọi người tốt, công việc tốt thì những cái khác sẽ
thay đổi. Khi không có ai làm việc với Tây với Tàu nữa thì họ chẳng làm
cách chi mà cai trị được mình. Cái con người... Vì cái tháp Babel mà
người ta bị làm cho ngộ nhận nhau, nhiều khi cũng nên tin như thế. Cha
tôi thường nói tới những chuyện thực tế trong đời sống, chính con người
và đời sống đó. Cha tôi không nói tới những điều mà theo tôi cuối cùng
người ta đứng trước một hư không. Với tôi nhiều khi người ta phải đưa
tới trước một sự khốc liệt nào đó, và khi đó con người mới có cơ hội
nhìn thấy mình. Người ta chết rồi như thế nào, còn một đời sống khác
không? Cha tôi đã khước từ một thay đổi được coi như tìm lại đức tin,
tôi không hiểu sao về điều này, thực ra đối với tôi cũng là chuyện dửng
dưng, tôi coi những giáo chủ chỉ là những nhà đạo đức. Chỉ có thế.
Trước hết họ là người, một con người tốt. Và sau là những nhà đạo
đức... Rồi cha tôi sẽ chết cũng như tôi, như mọi người, tôi nhìn thấy
mốt tấm gương khác...
6.
Buổi sáng bắt đầu cùng với sự huyên náo ngoài con
đường. Người chồng ngồi nơi chiếc ghế nhìn ra đường. Người vợ nói:
Người ta làm đường thật rồi ông, nhưng làm dưới mé sông. Chiếc xe ủi đất
máy nổ nặng nhọc hoạt động không ngừng. Người chồng nói: bà cho tôi ra
hiên chút. Người vợ đỡ người chồng ra ngoài. Mé dưới gần bờ sông, nơi
đang xây cất cây cầu những công nhân đang làm việc. Khi con đường dựơc
mở rộng, cây cầu được bắc xong... Người chồng nói: ít ra tôi cũng có
may mắn được nhìn thấy, có khi tôi sẽ thấy công việc xong nữa là
khác... Nụ cười trên môi người vợ...
1969
No comments:
Post a Comment