ĐÒ ƠI!
![condo2[1] condo2[1]](https://quechoablog.files.wordpress.com/2009/08/condo21.jpg?w=938)
Truyện ngắn
Người lái đò cắm sào đẩy con
thuyền tiến thêm chừng một sải nước rồi nhảy xuống, neo thuyền vào một
gốc cây bần mọc chìa ra ngoài mé nước. Nắng chưa tắt hẳn, hãy còn vài
giọt bấu víu trên những ngọn cây bần. Phía bên kia sông, một dải nước
sáng vàng lấp loáng chạy dài ra cửa sông, trong khi phía bên này, dòng
sông đã sẫm màu hoàng hôn. Một vài con bìm bịp đã cất tiếng gọi bạn, đó
là âm thanh duy nhất trường tồn trên bến sông này.
Người lái đò đó leo lên bờ, đứng
trên một mô đất cao, chống nạnh ngó trân trân về phía bên kia bờ sông,
ông đứng yên như một pho tượng đúc sẵn hàng giờ liền. Và khi nắng tắt
hẳn, dòng sông trở lên phẳng lặng, chuyển sang mầu nâu nhạt thì ông lẫn
vào hàng trăm cây bần mọc rậm rạp ở đây. Đến gần có thể nhầm đó là một
cây bần chết, rụng lá đã lâu ngày.
Ông đứng như vậy để làm gì?
Không ai biết. Hình như đó là một công việc bắt buộc thường nhật của
ông trước khi kết thúc một ngày lao lực trên sông nước.Đã mười sáu năm,
không sót một buổi chiều nào ông không chôn chân mình nơi mô đất quen
thuộc đấy. Và cũng chỉ một dáng dấp, một hướng nhìn đau đáu mong chờ,
thấp thỏm ấy, mười sáu năm rồi không đổi.
Điều gì khác chăng, có lẽ cái
bức tượng sống ấy bị lớp bụi thời gian bám vào làm cho nặng nề già nua,
và người đời dường như đã quên có bức tượng sống ấy trên đời…
Một chiều mưa phùn, dòng sông vốn
đã tĩnh lặng u buồn, qua làn mưa ngầu đục đã trở nên hiu quạnh, xa xôi.
Một đoàn ca nô chở đầy lính Pháp từ cửa sông chạy xộc vào. Những người
dân chài lưới ven sông cho đó là chuyện bình thường chẳng ai để ý đến
chúng: Nào ngờ đó là một sơ hở nghiêm trọng dẫn đến cái chết ba trăm
nhân mạng xưa nay vẫn cắm cúi làm ăn, ít ai ý thức được rằng mình đang
dẫm chân trong cuộc chiến tranh ghê gớm nhất nửa bán cầu này.
Chín chiếc ca nô Pháp vừa bại
trận thảm hại ở QK trở về. Trước mắt chúng cảnh thanh bình trên sông
nước của những người dân chài lưới là một nghịch cảnh vô lý cần phải xoá
bỏ. Súng nổ. Hàng vạn viên đạn xả vào những người dân lương thiện kia.
Không một ai kịp ẩn nấp…
Mới đó mà đã ba mười năm.
Năm ấy người lái đò mới mười ba
tuổi. Ông không hiểu sao ông lại không hề trúng một viên đạn nào. Ông
đứng chết giấc trên dọi cát cho đến khi đoàn ca nô đã lùi về QV mới sực
tỉnh. Ông cúi xuống nhặt mười viên đá chạy như điên dại về phía đoàn ca
nô. Ông dồn sức ném viên đá về phía đó. Bây giờ mỗi lần nhớ lại cái
hành động điên dại đó ông lại cười gằn, văng ra một tiếng chửi khô khốc :
“Ngu” .
Từ buổi chiều đó ông còn lại một
mình trên đời, không cha mẹ anh em bà con cật ruột. Ông bỏ nghề chài
lưới về bến sông làm người chở khách đò ngang. Đưa khách qua sông – cái
nghề buồn tẻ chán ngắt đối với những ai yêu mến sự xê dịch. Còn ông, ông
coi đó là công việc không thể chối bỏ. Đến nỗi ông nghĩ rằng ông không
thể chết được nếu không còn khách quá giang.
Ngày ngày, từ túp lều cất tạm
đơn sơ giữa mấy khóm dứa lưng chừng con đê, ông bước ra bến cắm cúi
chèo. Tên thật của ông dường như đã chìm xuống dưới đáy sông, mọi người
đều hờ hững gọi ông là bác lái đò. Người ta gọi ông bằng cái tên đó
không phải khi ông ngoài năm mươi mà lúc ông đang là một chàng trai lực
lưỡng…
Quãng sông này rất rộng, rộng hơn
bất cứ quãng sông nào người ta thường dùng để sang ngang suốt dải đất
miền Trung, đã một thời gắn bó với tên tuổi của ông. Ấy là thời máy bay
Mỹ đang oanh tạc ở khắp nơi trên miền Bắc Việt Nam. Quãng sông mà ông đã
sống chết cùng với nó có cái tên mà người ta thường dùng trong cuộc
chiến để chỉ những nơi cực kỳ ác liệt: toạ độ lửa.
Tên tuổi người lái đò đã chìm
lấp dưới đáy sông được người đời vớt lên đặt trang trọng trên các mặt
báo trung ương và địa phương: “Bùi Việt Pháo, người anh hùng trên sông
nước”, “Người lái đò kiên cường Bùi Việt Pháo”… Thậm chí có một nhà báo
nào đó quá hưng phấn gọi ông là “Người đảng viên trung kiên Bùi Việt
Pháo”, dù ông chưa hề có tên trong một tổ chức đoàn thể nào. ông chỉ là
xã viên hợp tác xã H, vậy thôi.
Đối với ông, cái chết chẳng có
nghĩa lý gì. Sở dĩ ông dầm trong sóng nước và bom đạn mà không chết chỉ
vì người đời còn cần đến ông. Chừng nào ông chỉ là thằng vô tích sự thì
ông sẽ chết, chết một cách lặng lẽ như mảnh ván thuyền chìm xuống đáy
sông này.
Người ta kể lại rằng, vào một
đêm, đâu vào khoảng giữa năm 1968, có một vị tướng cùng một đoàn các sĩ
quan trung cao cấp qua sông. Khi ông vừa đẩy thuyền đi được vài chục sải
bước thì máy bay Mỹ đột nhiên thả pháo sáng. Con thuyền của ông khác
nào một vệt mực đen giữa tờ giấy trắng tinh.
Các phi công Mỹ đã phát hiện ra
con thuyền, chúng bắt đầu quần lượn. Mọi người đều nghĩ rằng ông sẽ
dừng thuyền cho họ nhảy xuống sông bơi ngược lại. Nhưng không, ông vẫn
cắm cúi chèo.
- Quay ngược thuyền lái. – Vị tướng nói như ra lệnh.
Người lái đò quay lại nhìn vị
tướng rồi chẳng nói chẳng rằng tháo tung dây buộc buồm dự phòng cho
những chuyến đò dọc. Ông chẳng còn kịp giải thích cho mọi người hiểu
rằng chỉ lát nữa bến thuyền xuất phát sẽ nát như tương vì bom Mỹ, rằng ở
đây không ai hiểu các quy luật ném bom bằng ông, rằng trên mặt sông
trống trải này cũng có nhiều vùng mù mà chỉ đưa thuyền lọt vào đó coi
như an toàn trăm phần trăm. Buồm được gió căng phồng, thuyền bắt đầu
lao dọc dòng sông với một tốc độ tăng dần theo một góc áng chừng ba mươi
độ.
-Tại sao lại làm thế hả, hả?
Tất cả đều nhao nhao phản đối
hành động liều lĩnh của ông. Người lái đò không đáp lại, ông nghiến răng
điều khiển con thuyền. Máy bay Mỹ cắt bom. Những khối lửa và nước bốc
lên đổ ập xuống. Con thuyền chòng chành như muốn lật úp xuống.
-Quay lại đi! Hạ buồm! – Vị tướng
quát. Trong tình huống cực kỳ nguy hiểm ấy vị tướng quên mình đang
“thuộc quyền chỉ huy” của người lái đò. Và khi con thuyền bị một khối
nước hất cao, vị tướng hét to:
-Quay lại đi! Có quay lại không? Đồ ngu!
Người lái đò đứng vụt dậy, ông quay người kéo căng dây buồm, ngoái cổ lại, gầm lên :
-Quay cái con c…!
Rồi như vận động viên thuyền
buồm cấp kiện tướng, ông bình tĩnh điều khiển con thuyền vượt qua nửa
con sông lọt vào “vùng mờ” của các phi công Mỹ. Chúng điên cuồng quần
lượn, thả hàng lượt pháo sáng, cuối cùng chúng bỏ bom một dọc dài bên
xuất phát rồi bỏ đi. Người lái đò mỉm cười rung đùi thong thả hạ buồm
cho thuyền luồn qua bãi bần cập bến an toàn. Vị tướng bước lên bờ, đi
được một đoạn, ông gật gù với các trợ lý của mình :
- Té ra không phải lúc nào mình cũng làm tướng được các ông ạ? Thằng cha ấy khá đấy chứ nhẩy!
Không biết câu chuyện hư thực ra
sao. Cũng có thể đó chỉ là một trong rất nhiều huyền thoại về ông. Bây
giờ chiến tranh qua lâu rồi, chẳng ai nhắc đến cái tên Bùi Việt Pháo
nữa, người ta trở lại cái tên nguyên thuỷ của ông: bác lái đò. Chiến
tranh càng lùi xa về dĩ vãng thì tên thật của ông càng chìm sâu khuất
lấp dưới đáy sông. Nhưng đối với ông, điều đó thực chẳng có ý nghĩa gì
hết.
![condo[1] condo[1]](https://quechoablog.files.wordpress.com/2009/08/condo1.jpg?w=625)
Gần khuya,
người lái đò mới chui vào túp lều lá mía. Túp lều quá ọp ẹp, xiêu vẹo.
Thế mà nó vẫn đứng hết năm này qua năm khác. Ngay cả cơn bão số mười năm
ngoái thổi bay hàng chục ngôi nhà lớn nhỏ ở xã H, riêng nó chỉ rung lên
chút thôi. Có lẽ bờ đê và bãi bến đã che chở cho nó. Nó như là bóng
dáng của lão lái đò: cũ kỹ, già nua, đơn độc…
Người lái đò lục suất cơm mà hợp
tác xã cho người nấu nướng cẩn thận đưa ra tận nơi cho ông. Ông gắp mấy
con tôm to để riêng ra rồi với tay lấy xị rượu ở góc lều, cũng của hợp
tác xã dành cho, bắt đầu nhấp từng ngụm rượu một. Khi rượu đã ngấm, ông
nhai vội mấy miếng cơm rồi nằm gác chân lên một thanh gỗ nhỏ, cất tiếng
hát.
Ông không thuộc một bài hát nào hết, ông chỉ hát đi hát lại mỗi câu thuộc từ thời chống Pháp với làn điệu dân ca của riêng ông:
Ai (ờ) đũa (ư hư ừ) con sáo (mà) qua (á á a) sông (tòm tòm cắc).
Để cho (ó o ò) con (mà) sáo (í ì i) sổ lồng (úi trời là) bay ngang!
(Tòm tòm cắc! Tùm!)
Tiếng hát của ông nhỏ dần, rời rạc dần rồi lịm tắt. Ấy là khi ông đã ngủ say.
Nhưng có rất nhiều đêm, tỉ như
đêm nay chẳng hạn, sau khi hát chán chê, ông ngồi bó gối nhìn chăm chăm
vào ngọn đèn. Ông nhìn mãi… đột nhiên ngửa cổ cười khậc khậc và gầm lên:
“Ngu”.
Mới nghe có thể nhầm ông hoài
niệm về cái thời ca nô Pháp chạy qua sông và cái chết của ba trăm người
dân chài lưới… Nhưng không, có một nỗi đau ghê gớm đang gợi thức cho
ông. Đúng hơn, ông đang đau xót nhớ về một tội lỗi của mình.
Ông có năm mươi hai năm sống
lương thiện và một giờ gây tội ác. Ông cho đó là tội ác ghê tởm nhất mà
tổng số những điều thiện ông có không sao bù đắp nổi. Chuyện đó xảy ra
chính trong túp lều lá mía này.
…Vào
khoảng nửa đêm, gió bỗng nhiên chuyển hướng, mạnh dần lên. Và mưa. Và
sấm chớp. Người lái đò chui vào lều, lấy chăn trùm kín đầu. Mặc cho mọi
đột biến ngoài túp lều, ông rỉ rả hát cái câu hát muôn thủa của ông. Quá
quen với rất nhiều cơn bão kiểu này, ông chẳng lo sợ gì, nhưng bao giờ
ông cũng buồn.
Ngoài túp lều gió giật từng cơn,
mưa dập xuống sông vỡ tan như tiếng nứa vỡ. Mái lều làm bằng lá mía
rung bần bật, ướt đẫm, nhỏ từng giọt xuống một góc chiếu. Tiếng bìm bịp
tắt ngấm, khắp nơi ổn ào một thứ âm thanh hỗn tạp. Bỗng thấy mình trống
trải, cô đơn, ông nhắm nghiền mắt thương nhớ về một kỉ niệm xa lắc…
Cô gái có khuôn mặt trắng hồng,
mái tóc dày buông xuống quá gấu áo, đôi mắt tươi sáng và nụ cười. Ôi
chao, cái nụ cười làm cho ngực ông nhói lên… Cô gái ngồi ở mui thuyền,
thò tay xuống vốc nước hắt lên áo ông. Cười. Vầng trăng vỡ tan rồi chập
lại lấp lánh… “Hò ơi… ví dầu cha mẹ em có đánh chní chục, một trăm…
roi, đánh xong rồi (mà) em đứng dậy… ơ… hờ… một hai (là) em vẫn theo… ơ…
chàng!”.
Con thuyền nghiêng ngửa giữa
dòng. Bàn tay trắng muốt đặt vào ngực ông. Vầng trăng đảo nửa vòng…
“Đừng!… Liều!”. Vầng trăng bỗng trồi lên, bay chơi vơi trên mặt nước
sương mù:.. “Có thương không?… Thiệt thương không?” Con thuyền quay vòng
tròn, trôi vô hướng… “Ghét ghê… này! Đừng anh…”. Lại một lần nữa vầng
trăng chao. Gió nổi. Bao nhiêu là gió. “Thôi anh. kìa…!”.
Thế mà đã qua rồi. Qua lâu rồi. Qua từ lúc nào ông cũng không biết nữa… À ơi… lạnh lùng thay láng giềng ơi… (chứ) Láng giềng lạnh ít… ơi… à… sao tôi lạnh nhiều…”
-Đò ơi… đò!
Tiếng gọi đò bất chợt mọc lên
giữa đêm mưa bão. Người lái đò uể oải chui ra khỏi lều. Gió giật, áo ông
bay phần phật. Một bóng người đứng ở mép sông, tấm áo mưa trùm kín từ
đầu đến chân.
- Ai đó? Vô đây!
Người lái đò giơ cao đèn bão ngang tầm mắt. Bóng người đó chuyển động chậm chạp về phía ông.
-Cháu ở đường 12 mới về… muốn
qua sông…- Tiếng một phụ nữ cất lên trong trẻo. Dưới quầng sáng đỏ quạch
của đèn dầu, ông nhận ra một cô gái khoảng hai mươi nhăm tuổi. Khuôn
mặt hơi dài, ướt đẫm nước mưa.
- Muốn cũng không được. Chị vào lều trú tạm, khi mô lặng gió tôi đưa qua.
Nói rồi ông chui vào lều, để lại
cô gái đứng như trời trồng giữa cơn gió. Một lát sau chị lặng lẽ chui
vào lều. Chị ngồi xuống mép chiếu, vắt áo mưa ngoài cửa lều che gió, khẽ
thở dài :
- Ôi dào… mưa với gió! Nếu không có chiến tranh người ta đã làm một cái cầu qua đây rồi.
- Cầu mô cho thấu, sông ni rộng
hơn một cây số.- Vừa nói, ông vừa ném cái chăn chiên về phía chị. – Trùm
vào người cho nó ấm. Muốn ngủ thì cứ ngủ.
Chị đón tấm chăn, vui vẻ quấn hết vào người, ngồi tựa vào vách lều.
- Bác biết cữ này mưa gió còn lâu không?
- Tuỳ… tuỳ ông thiên lôi.
- Ông trời cứ thế này đến sáng thì gay, bác nhỉ?
- Ừ
Người lái đò uể oải trả lời, ông
cúi xuống tìm xị rượu dự trữ giấu ở dưới tấm gỗ mục. Bây giờ đã hết tôm
tươi, chỉ còn mấy con cá khô nướng. Ông xé nhỏ, bỏ vào miệng nhai nhóp
nhép. Chợt nhớ đến người khách ông ngẩng lên:
-Chị đã cơm nước chi chưa? Còn cơm nguội đó, nhiều lắm.
Người khách buồn ngủ ríu mắt, nghe ông hỏi, nhìn ông cười gắng :
- Dạ cám ơn bác. Cháu ăn rồi
Người khách ngửa cổ ngáp, rồi không chịu được cơn buồn ngủ đang đến, chị nghẹo đầu thiếp di.
Người lái đò trở lại thú vui
thường nhật của ông: Uống rượu từng ngụm nhỏ, nhai hết mấy con cá khô…
và rỉ rả hát. Ngoài kia gió vẫn giật liên hồi. Mưa mỗi lúc một to hơn.
Ông hát mãi cho đến khi tai ông chỉ còn nghe tiếng u u. Ông ngủ, ngáy
như sấm.
Mái lều tự nhiên trổ một lỗ nhỏ,
những giọt mưa lọt qua rơi đúng vào cổ ông. Ông mở mắt nhìn, chưa hiểu
lý do vì sao mình thấy lạnh. Chợt ông thấy một gương mặt phụ nữ đang
tươi tắn mỉm cười – có lẽ người khách đang có một giấc mơ vui – những
sợi tóc mai rung rung.
Ông quay mặt đi cố nhớ vì sao lại
có một gương mặt phụ nữ ở đây? Và lờ mờ nhớ ra. Ông nhắm mắt thở đều.
Nhưng bấy giờ ngọn đèn bão lại làm cho ông chói mắt. Ông mở to mắt nhìn
chằm chằm ngọn đèn. Ngọn đèn toả ra thứ ánh sáng yếu ớt, vàng nhợt.
Khuôn mặt phụ nữ đang cười. Mấy giọt nước mưa còn đọng lại hai bên cánh
mũi và đuôi mắt chợt lóng lánh.
Gió thổi ngọn đèn khẽ lay, những
giọt nước mưa bỗng chuyển dộng… Phất phơ những sợi tóc mai… Ngọn đèn
trước mắt ông bỗng nhoè dần… Tiếng sóng vỗ. Gió. Túp lều như chao đảo.
Bỗng mọc lên một vầng trăng vỡ tan ra rồi chập lại, lấp lánh lấp lánh…
Trước mắt ông gương mặt người phụ nữ bỗng nhạt nhoà trong ánh sáng mơ hồ của ký ức xa xôi… Thốt nhiên vọng về tiếng hát “hò
ơi… ví dầu chau mẹ có đánh chín chục, một trăm roi, đánh xong rồi (mà)
em đứng dậy… ơ hờ… một hai (là)_ em vẫn theo… ơ… chàng”.
Vầng
trăng vẫn trồi lên bay chơi vơi giữa mặt nước sương mù. Con thuyền vẫn
nghiêng ngửa giữa dòng. Vầng trăng đảo nửa vòng, lại nửa vòng trăng
chao… Người phụ nữ khẽ cựa mình, đưa tay vuốt nhẹ tóc, rồi ngủ yên. Một
giọt nước từ trán lăn xuống khoé môi, sáng vàng lóng lánh… “À ơi… lạnh lùng thay láng giềng ơi… (chứ) láng giềng lạnh ít… ơi à… sao tôi… mà tôi… ư… lạnh (ơ) nhiều…”.
Ông lao về phía khuôn mặt tươi tắn đang cười. Ông ghì chặt. Một tiếng kêu thất thanh. Ngoài túp lều mưa bão vẫn đầy trời.
*
* *
Đồ chó!
Người lái đò bừng lỉnh. Tiếng
chửi vừa ném xuống mặt ông hình như bay ra từ phía góc mái lều. Ông
sững sờ ngồi dậy. Ngoài kia vẫn tiếng bìm bịp đập với tiếng sóng. Tiếng
kêu kiên nhẫn, sầu não của loài chim ấy đêm nào cũng vọng về làm cho ông
ngày mỗi mệt mỏi, rã rời. Ông nằm xuống gối đầu lên hai tay mình, cố
quên đi tiếng vọng vừa phát ra. Ông thở đều đều lẩm nhẩm đếm từng tiếng
sóng…
Đồ chó!
Người lái đò ngồi bật dậy, ông hoảng hốt sờ soạng khắp lều. Ông
nghồi ngẩn ngơ không biết mình muốn tìm gì. Ông thấy sợ. Ngồi co ro vào
một góc lều, trông ông giống như một con mèo đói rình mồi. Ông biết
tiếng chửi ấy là cua người đàn bà kia. Mười sáu năm về trước, tiếng chửi
ấy đã ném vào mặt ông cùng với những cái tát điên đại của chị.
Đêm nay là đêm thứ bao nhiêu
tiếng chửi ấy vọng về ông cũng chẳng còn nhớ nữa. Ông có cảm giác tiếng
chửi ấy dường như lưu trữ khắp nơi, nó thường trực ở bất cứ nơi nào ông
tìm đến để kiếm sự yên tĩnh.
Sau cái đêm dữ đội ấy, ông như
một kẻ câm. Ông lặng lẽ cắm cúi chèo, chèo và chèo. Bom đạn Mỹ cứ giáng
xuống còn ông cứ chèo. Đôi khi ông cầu trời cho một mảnh bom nào đó cắm
sâu vào ngực. Thế mà suốt tám năm chiến tranh phá hoại ông không hề bị
một vết xước.
Tin tức về số phận người đàn bà ấy, qua
những người đi đò như một mạch nước ngầm âm thầm chảy qua đời ông.
Người ta kể rằng. Ở xã N. vợ ông chủ tịch xã có thai với một thằng vô
lại nào đó đã bị ông chủ tịch xã ruồng bỏ. Cô ta ẵm đứa con vô thừa nhận
chưa tròn tháng tuổi lang thang phiêu bạt khắp nơi. Giờ không biết về
đâu.
Sau người ta lại kháo rằng: tự
cô ta trốn đi, đâu như trốn theo người tình thì phải. Ông chồng của cô
căm lắm, thề tìm được cái thằng chung chạ với vợ ông thì ông sẽ chém ra
ba khúc vứt xuống sông.
Cuối cùng, người lái đò hay rằng.
người đàn bà ấy tên là Túc. Chị là trung đội trưởng thanh niên xung
phong được đơn vị cho về thăm chồng hai ngày. Chẳng ngờ khi về đến nhà
anh chồng đi vắng. Chị quay lại đơn vị rồi chín tháng mười ngày sau chị
sinh được một đứa con trai. Chị ôm con trốn đơn vị lang thang hơn tháng
trong rừng, chị quay về gõ cửa nhà mình thì anh chồng đã đẩy chị ra
khỏi ngõ…
Từ đấy đến nay không còn ai nhắc
đến chuyện ấy nữa. Đối với tất cả đó có thể là tai biến nhỏ nhoi trong
chiến tranh, nhưng người lái đò thì nhớ lắm, nhớ từng chi tiết nhỏ
chuyện kể của người đời.
Thế ra mười sáu năm qua, người
đàn bà tội nghiệp kia bị bao nhiêu nước bọt của người đời phỉ nhổ vào
mặt. Còn ông? Chưa một ai nghĩ ông một là thằng đàn ông khốn nạn. Những
năm chiến tranh, ông là một anh hùng trên sông nước. Chính ông đã cứu
thoát cho bao nhiêu sinh mạng. Hàng ngàn người đang sống cùng thời với
ông mang ơn ông. Hòa bình lập lại, ông là người đàn ông hiền lành, cần
cù, không vợ con; không họ bàng thân thích… và ông đã được sống trong sự
đùm bọc thương yêu của mọi người.
Chỉ đêm về khi tất cả âm thanh
của cuộc sống đã hoà tan trong sóng nước, khi một mình ông đối diện
trong tĩnh lặng u buồn và ngọn đèn dầu đỏ quạch thì tiếng chửi của người
đàn bà tội nghiệp kia ở đâu đó lại dồn về…
Mấy tháng sau hoà bình, lấy cớ
với ban quản trị hợp tác xã là ông muốn đi đây đó một thời gian, ông cố
cất công đi tìm người đàn bà đó. Tìm, nhưng ông cũng khá mơ hồ về mục
đích. Tìm để làm gì? Ông không biết, không biết đâu, đừng hỏi ông điều
ấy.
Gần ba chục lâm, nông trường,
nhà máy xí nghiệp phụ nữ tên là Túc ông đã gặp, đều một lần chồng đều
đang rất hạnh phúc. Khi đã cạn tiền, kiệt sức ông trở về với bến đò của
ông, lại cắm cúi chèo, chèo chèo. Và chiều chiều ông lại đứng trên mô
đất cao ngóng về phía bờ bên kia. Ông ngóng đợi người đàn bà kia trở về.
Ông đứng trong nỗi mong chờ tuyệt vọng đã mười sáu năm nay.
Đã gần ba giờ sáng rồi mà người
lái đò không hề chợp mắt. Ông uống rượu nhiều hơn mọi đêm. Uống miết mà
không thấy say. Đêm nay trong ông đang xảy ra những xáo động ghê gớm.
Chiều qua ông vừa hay tin rằng
người chồng của người đàn bà kia đã về ở thị trấn B. Cách bến đò bên kia
chừng một cây số. Anh ấy tên là Tâm, trước làm chủ lịch xã N nay về làm
phó chủ tịch huyện. Thế là ông sẽ biết người đàn bà ấy ở đâu, nếu như
ông liều mạng đến tự thú, ông nghĩ vậy. Nhưng ông sợ. Một cảm giác ghê
rợn tự nhiên chạy dọc sống lưng khi nghĩ đến giây lát tìm gặp người đàn
ông ấy. Rồi ngày mai cả huyện sẽ biết đến chuyện của ông. Và ông – “Vị
anh hùng trên sông nước” sẽ bị coi là một thằng khốn nạn.
-Một thằng khốn nạn ! Khơ! Khơ! …Người lái đò bỗng bật ra tiếng cười chua chát.
Bây giờ người đàn bà ấy ở đâu? Có
thể cô đã chết vì không chịu được sự sỉ nhục của người đời. Có thể cô
ta đáng sống cơ cực cùng với đứa con trai ở một nơi heo hút nào đó… Tại
sao cô ta không được sống hạnh phúc? Tại sao?… Ông khẽ lắc đầu, ngửa cổ
uống hết số rượu còn lại trong chai. Rồi ông nhớ về cái đêm ấy… Khuôn
mặt thanh tú của người đàn bà bỗng nhăn nhó.
Đôi mắt to sáng của chị đỏ rực dữ tợn, man dại :
-Đồ chó!
Một cái vỏ chai đập vào thái
Dương ông. Vô hồi những cái tát. Người đàn bà vùng chạy ra khỏi lều giữa
lúc cao điểm của cơn bão, chị giật tung dây neo thuyền, đẩy thuyền ra
sông. Người lái đò ngồi đờ đẫn, rũ rượi một lúc lâu rồi chợt nhớ ra mình
phải làm gì, ông chạy ào ra bến. Con thuyền đã rời bến một quãng xa.
Ông nhảy xuống sông gắng sức bơi đuổi theo.
Ông bám vào mạn thuyền chực leo lên.
- Buông ra!
- Chị không đi một mình được đâu.
- Mày còn nói được câu ấy à?
- Chị để tôi chèo…
- Buông ra không? Đồ chó.
Người đàn bà vung mái chèo dáng
hết sức xuống đầu ông. Ông rú lên, buông mạn thuyền, chìm hẳn xuống dòng
sông. Tỉnh dậy, ông ngơ ngác thấy mình nằm trần truồng trơ trọi trên
dòi cát bên kia cùng với con thuyền đã neo buộc cẩn thận. Ông không cách
nào giải thích được tại sao lại như thế. Chỉ có điều là ông nhớ, nhớ
ghê lắm…
Bây giờ rượu không còn một giọt.
Ông thấy cổ ông ngứa quá. Ông thò tay gãi nhưng tìm mãi không biết cổ
mình ở đâu Ông nhắm nghiền mắt “Cố mà ngủ, ngủ là chết… chết là hết… là
quên hết khoẻ!”.
Ông thấy người nhẹ hẳn, bập bềnh, bập bềnh…
Đò ơi… đò! Đò ơi… đò! Đò ơi…!
Tiếng gọi vang lên ào ạt như
tiếng sóng nhịp ba vô hồi đập vào bến. Người lái đò ngồi bật dậy, chạy
ào ra. Rõ ràng là ông vừa nghe tiếng gọi đò trong vắt của một phụ nữ
trẻ. Tiếng gọi ấy lâu nay đã tiềm ẩn trong ngực ông, đó chính là tiếng
gọi đò của người đàn bà mà ông đang chờ đợi, làm sao ông nhầm lẫn được.
Ông nhảy lên thuyền hối hả chống
thuyền đi. Rồi ông ném cây sào vào lòng thuyền, cầm lấy mái chèo nghiến
răng chèo. Mồ hôi ông ướt đẫm. Con thuyền lao trong sương mù với tốc
độ hiếm có từ ngày người lái đò chỉ huy nó.
Thuyền cập bến. Một dải cát dài
ướt đẫm sương đêm. Tịnh không một bóng người. Người lái đò khuỵu chân,
gục đầu xuống bờ cát. Ông biết ông đã nhầm lẫn. Thực ra đó là dư vang
ký ức đau buồn của ông vọng về.
Ông gượng đứng dậy, ngửa mặt lên
trời, lảo đảo xiêu vẹo như một kẻ trọng thương sắp ngã gục. Nhưng ông
không ngã. Ông đi, cứ đi… Rồi ông kinh ngạc thấy mình đang đứng trước
của nhà ông Tâm phó chủ tịch huyện. Ông dập cửa. Nghiến răng đập cửa.
Cửa vẫn đóng kín mít. Trong kia,
mọi người đang ngủ say, họ mơ hồ nghe tiếng đập cửa nhưng cha ai chịu
trở mình. Có lẽ họ cho rằng đó là tiếng của những ngọn gió ngoài bờ
sông, thỉnh thoảng vẫn dội về…
Ba Đồn 2-1985
No comments:
Post a Comment