Saturday, May 21, 2022

 PHẨM TAM QUỐC


Cầm trên tay cuốn: Phẩm Tam Quốc, lại nhớ hồi còn thiếu niên. Cứ chiều đến bất kể mưa phùn gió bấc hay không khí nóng hầm hập như rang, đúng 6.00 lại chạy sang nhà hàng xóm có cái Cassette xịn xò Sharp 777, để chờ nghe Nguyễn Thanh đọc truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa. Từ thứ 2 đến thứ 6 mỗi ngày chừng 10 đến 15 phút, kéo dài đến cả năm trời để nghe đọc hết. Lớn lên hơn chút thì đọc truyện, xem phim, đọc các bình phẩm, rồi nghe lỏm người lớn tuổi bình phẩm. Khi ra trường đi làm vẫn nghe các đàn anh nói chuyện Tam Quốc trong công việc. Có anh làm doanh nghiệp bảo Tam Quốc là sách gối đầu giường của giới doanh thương Nhật Bản. Của đáng tội, sau này đi giảng lãnh đạo và chiến lược thì mình cũng hay lấy ví dụ trong Tam Quốc. Thậm chí có lãnh đạo chất vấn: thầy dân tây học giảng leadership, sao lại lấy nhiều ví dụ Tàu như vậy. Nhiều khi cứ phải vậy, muốn học Tây lại phải bắc cầu qua ví dụ Tàu cho đỡ sốc văn hóa. Kể cũng lạ.


Nhân đọc cuốn sách mới ra này, thấy có vài điều gợi mở viết ra theo dạng năm câu hỏi dưới đây, để cùng chia sẻ:


1. Tại sao Tam Quốc lại hấp dẫn với người Việt Nam?

Có thể nói, những câu chuyện xoay quanh Tam Quốc viết về một giai đoạn lịch sử khá ngắn ngủi nhưng vô cùng đặc sắc của đất nước Trung Hoa, được tính từ năm 190 CN đến 280 CN. Tất cả chỉ chừng 90 năm, trong đó thế Tam Quốc chỉ được hình thành và lụi tàn trong khoảng 60 năm, với sự xuất hiện của nước Ngụy năm 220, Thục 221, và Ngô 222, cho đến khi tất cả qui tụ về nhà Tây Tấn. 


Giai đoạn này có thể tóm lược trong chữ “loạn”. Xã tắc lê dân bá tánh khổ ải, lầm than, đói rét, xương khô, xác chết đầy nội, trong chiến tranh loạn lạc triển miên. Loạn thế sinh anh hùng, nhân tài hào kiệt lớp lớp. Thời thế hun đúc lên khí chất và tài năng của con người. Khi phân tích về Trung Hoa, nhà nghiên cứu kinh tế chính trị nổi tiếng thế giới, GS Fukuyama cho rằng: chính những nỗi đau khổ trùng trùng từ chiến tranh liên miên đã tạo động lực nuôi dưỡng nên những mong muốn thái bình thịnh trị, an dân, khát khao thống nhất thiên hạ, tạo dựng nên nhà nước mạnh với sự đồng tâm hiệp lực của các nhân tài. Cho nên, đứng từ góc độ chính trị học, Trung Quốc có truyền thống nuôi dưỡng, trọng dụng, và phát triển nhân tài, tạo nên những nhà nước mạnh từ thời Tần Hán. Dù so với phương Tây, theo Fukuyama, Trung Quốc lại bị yếu ở hai cột trụ còn lại, đó là tính pháp quyền và chính phủ có tính giải trình, hay dân chủ xã hội.


Theo Dịch Trung Thiên, so cả tiến trình lịch sử giai đoạn Tam Quốc tuy ngắn nhưng lại rất đặc biệt, như một khúc cua của lịch sử. Nhà Tần tuy ngắn ngủi nhưng đã tạo ra một bức đột phá lớn về xã hội, chuyển từ một xã hội phong kiến, đa quốc gia phân tán, sang nhà nước đế quốc tập quyền. Chuyển sự cai trị từ quí tộc, sang địa chủ quí tộc. Nhà nước đế quốc có xu hướng giải quí tộc. Sang đến thời Hán, thì xuất hiện thêm tầng lớp nho sĩ, tham gia vào bộ máy lãnh đạo, tạo nên liên minh quyền lực là địa chủ sĩ tộc, rồi chốt lại là địa chủ thứ tộc. Thứ tộc là tầng lớp nghèo nhưng có động lực lập thân qua con đường học hành thi cử. Mỗi đời tự học tự thi chứ không có cha truyền con nối, tạo nên cơ chế cạnh tranh nhân tài, nảy nở nhiều nhân tài cho xã hội.

Những nhân tài này tham gia đông đảo vào các bộ máy cai trị hay chiến tranh. Họ ra sức thi thố để chứng tỏ tài năng, mong thể hiện chí lớn, muốn lập công lớn, góp phần tạo dựng thiên hạ thái bình thịnh trị. Chính vì vậy, nhân tài trong Tam Quốc lớp lớp không kể hết đủ các dạng từ nhân tài lãnh đạo, chiến lược, công nghệ, võ thuật, binh thư, ngoại giao, mưu lược kế sách, không dễ gì kể tên hay nhớ hết những nhân vật xuất chúng. Đồng thời nhờ người tài và trọng dụng người tài nên bên nào cũng quyết tâm lập chí lập nghiệp, muốn giành chiến thắng. Tạo nên một bức tranh tổng thể xã hội vô cùng sinh động, sống động, và năng động, mang tính liên tưởng học hỏi thú vị, giá trị, gần gũi và sâu sắc.


Sự tương đồng của xã hội Việt Nam, ít nhất là từ khi giành quyền tự chủ từ phong kiến Trung Hoa. Trong hơn một ngàn năm trở lại đây, người Việt cũng luôn trải qua hay bị sa vào các cuộc chiến do cả những mâu thuẫn nội bộ, đến những xung đột từ bên ngoài. Có lẽ đó chính là lý do cốt lõi làm cho Tam Quốc đã trở nên vô cùng gần gũi, sống động trong suốt chiếu dài lịch sử, không chỉ trong giới sĩ phu, quan lại, mà còn trong mỗi cuộc cờ, bàn rượu, hay những trao đổi công việc của giới bình dân, trong sinh hoạt thường nhật mỗi gia đình.

Câu chuyện thứ nhất đại khái là như vậy.


2. Tào Tháo là người như thế nào?

Hình tượng Tào Tháo rõ ràng là không tốt lắm, đa nghi như Tào Tháo, gian như Tào Tháo, thậm chí còn Tào Tháo đuổi. Nhưng ngược trở lại, nếu hỏi thích ai nhất thì có lẽ quá nửa học viên các lớp CEO sẽ chọn Tào Tháo. Vậy thì nói về Tào Tháo có lẽ nổi lên hai khía cạnh: thứ nhất là nhiều thành kiến và thứ hai là giỏi giang xuất chúng. Hai cái này thậm chí còn quyện vào nhau.


Tại sao Tào Tháo lại bị thành kiến thì đầu tiên chính là vì ông giỏi, như câu nói dân gian: tài chi cho lắm cho trời đất ghen. Tiếp theo là ông hành động khó đoán, miễn là cá nhân ông cho là đúng, đặt ưu tiên hành động lên trước. Đây là đặc điểm lãnh đạo rất hiện đại trong một xã hội trọng khuôn phép, con người thích thể hiện tài năng bằng văn vẻ, nặng về trình bày mô tả, coi hành động thẳng thắn là lỗ mãng, không có phép tắc. Tiếp theo nữa, không chỉ mạnh mẽ ưa hành động mà ông còn hay nói thẳng, thích gì nói đó, không lòng vòng. Một người không theo khuôn phép, phá cách trong cả suy nghĩ, lời nói và hành động, lại đạt kết quả vượt trội, nên dễ bị nhìn, bị đánh giá tiêu cực. Ví dụ khi biết giết lầm Lã Bá Tra, Tháo tự nhủ rằng thà mình phụ người cũng còn hơn người phụ mình. Ý ông ta chỉ là trong sự việc đã xảy ra thì đằng nào cũng như thế, dù sao cũng lỗi từ mình gây ra. Nhưng đến La Quán Trung, thì câu đó lại bị đẩy thành quan điểm, thái độ, chứ không dừng ở sự việc. Ý lại được chuyển thành là ta sẵn sàng phụ cả thiên hạ, chấp tất cả. Cái tiếng xấu cứ bị lặp đi lặp lại, đôi khi là lặp lại có định hướng theo những diễn ngôn chính trị có lợi cho các hoàng đế thì câu chuyện gian manh, xảo trá, được lặp đi lặp lại thành hình mẫu. Tuy vậy cũng phải nói trong con người Tháo cũng có chất giảo hoạt, gian tính, do từ bé lêu lổng chơi bời dấn thân từ nhỏ trong một thế giới loạn lạc đầy sự lọc lừa. Nói cho cùng cũng là con người, có ai là hoàn hảo được. Khi làm việc lớn thì ngoài phần tốt, phần tiêu cực cũng thể hiện rõ ra. 


Vậy những đặc trưng điểm mạnh của Tào Tháo là gì?

Thứ nhất Tháo có tài xuất chúng hơn người cả về văn lẫn võ. Ngay từ trẻ nhiều người đã nhìn thấy khả năng thu phục thiên hạ của con người này. Không chỉ văn võ, Tào Tháo còn rất chịu khó sưu tầm đọc binh thư các cách thức dung binh.


Thứ hai, người này có tầm nhìn và ý chí lớn, suy nghĩ khác biệt. Hầu hết các hào kiệt thời loạn chỉ muốn nhảy lên chiếm cứ, thoả mãn cái tôi cá nhân, thì Tào Tháo có tầm nhìn thống nhất thiên hạ, dẹp yên các nhóm quân phiệt. Nhưng ông này cũng hiểu cái uy tín của mình không tốt, nên biết dựa vào hình tượng thiên tử để thu phục thiên hạ.


Thứ ba, khả năng tự hoàn thiện tốt. Chủ động dấn thân, học hỏi từ thực tiễn chiến đấu. Luôn khích lệ sự trao đổi chia sẻ, và biết học hỏi rút tỉa những ý tưởng thông minh nhất từ những người xung quanh.


Thứ tư, thẳng thật trong cả lời nói và hành động dù đôi khi không dễ nghe hay dễ chấp nhận, nhưng luôn ưu tiên hành động chủ động, chấp nhận cả sai lầm.


Thứ năm, Tào Tháo là người sống tình cảm. Đa số bạn cũ người quen cũ, kể cả những người phản bội, Tháo cũng chỉ mắng qua loa rồi tha như Trần Cung, Trương Mạc, Trần Lâm. Trừ một hai trường hợp quá bất kính mà lặp đi lặp lại vượt qua ranh giới. Thậm chí có trường hợp như người vợ cả họ Đinh của Tào Tháo, không có con, nhận Tào Ngang làm con nuôi. Khi Tào Ngang chết trận, bà này trách mắng, khóc lóc, nhiếp móc Tào Tháo không quan tâm con. Bực mình Tào Tháo đuổi về nhà mẹ đẻ. Nhưng sau đó, Tháo đến tận nhà tận tình dỗ dành, kiên nhẫn mời về,dù không phải là xuân sắc hay dễ chiều gì. Khi về già, Tào Tháo cũng chủ yếu nói về cuộc sống của những người phụ nữ xung quanh sau khi ông chết. Dù điều này bị mang tiếng là chỉ loanh quanh chuyện nữ nhi, không đưa ra được ý gì lớn trước khi ra đi.


Tóm lại thì Tào Tháo là một tài năng xuất chúng, nhân cách đa diện, có nhiều điểm khác biệt không dễ hiểu, nên dễ bị hiểu lầm, bị mang tiếng, nhưng không phải là không có cái gian xảo. Mọi người vẫn đặt ra, vậy Tào Tháo là anh hùng, gian hùng, hay gian thần. Tác giả Dịch Trung Thiên, kết luận Tháo là gian hùng đáng yêu, có hùng, có gian nhưng có sức hấp dẫn. Cái này cũng rất hay. Nếu phải chọn thì có lẽ tôi chọn Tào Tháo là kỳ hùng. Anh hùng thì rõ rồi, nhưng chữ Kỳ nghĩa là cao lớn, khác biệt, khó đánh giá, có khi còn kỳ quặc với rất nhiều người.


3. Lưu Bị có tài hay bất tài?

Khi nói về Lưu Bị, không ít người cho rằng ông này là người bất tài, chỉ toàn chạy mới khóc. Thật ra thì Tào Tháo cũng chạy cũng khóc nhiều, chỉ là ít hơn Lưu Bị thôi. Còn cụ Tổ của Lưu Bị là Lưu Bang đánh nhau cũng chạy suốt. Thời loạn, bày quân ra đánh nhau, vỡ trận mà không bỏ chạy thì làm gì được. Chạy mới khóc thời đó không có gì xấu. Ngược lại xem có tài hay không, thì phải xem làm được gì. Vậy thì nói luôn, Lưu Bị là người đầu tiên xưng đế trong Tam Quốc. Lửa thử vàng gian nan thử sức. Thời loạn đánh sát ván tả bổ xiểng như vậy không có tài thì không có cửa gì cả. Hơn nữa, qui luật của loài người: thì người tài chỉ đi theo người tài hơn, chứ không dễ gì có thể dỗ dành nịnh bợ được họ. Cái khó của Bị là ông này tay trắng, sạch trơn như không có gì nếu so với cơ ngơi của Tào Tháo hay Tôn Quyền. Nhưng ông ấy lại trở thành hoàng đế. Cái tài năng cái anh hùng nó sờ sờ ra đó thôi.


Cái tài đầu tiên có lẽ phải nói ông này là thánh đu dây, chuyên đi vào cửa tịt với một chút hy vọng nhỏ nhoi. Bởi lẽ ông xuất thân bần hàn, vốn nhỏ, quân ít, nhưng lại muốn làm việc lớn, nên ông là một người cực kỳ nhạy bén, nhìn nhanh ra khe của hẹp, nhìn ra thị trường ngách, đu dây giữa các lực lượng mạnh khác để tìm thời cơ. 


Cái tài thứ hai, ông Bị rất giỏi thu phục người tài bằng cả sự thấu hiểu, kiên nhẫn, và sự sẵn sàng hy sinh cho mối quan hệ. Khả năng thu hút nhân tài của Lưu Bị là xuất chúng, vượt trội hai người còn lại.


Thư ba là rất giỏi truyền thông, xây dựng thương hiệu cá nhân. Tuy lực yếu hơn nhưng lại chọn positioning thương hiệu, trực tiếp đối đầu với Tào A Man, Bị là tôn thất hàng xịn authentic, còn Tháo là gian thần, hàng rởm. Định vị này giúp Lưu Bị giành được chính nghĩa, cực kỳ lợi thế trong thu hút nhân tài.


Nói tóm lại, Lưu Bị là một nhân tài và một anh hùng đã thành danh, thành nghiệp. Ông có chí anh hùng, nuôi chí anh hùng theo đuổi nghiệp lớn; có khí khái anh hùng không ngại bàn bạc ngồi cùng mâm với những người giàu mạnh hơn mình; có phong thái và hồn cốt anh hùng, đến Tào Tháo cũng phải thốt lên: anh hùng thiên hạ chỉ có tôi và ông. Và ông có cả tình nghĩa trái tim anh hùng. Anh hùng chỉ phục anh hùng, nhất là lại chọn đi theo người bần hàn yếu thế thì phải có một trái tim năng lượng rất mạnh để thu hút những Quan, Trương, Khổng Minh, Mã Siêu, Triệu Tử Long. Đôn đáo vất vả cả đời chỉ vì không có địa bàn không có vốn liếng lớn, nhưng vẫn thành nghiệp. Anh tài như vậy không đáng kính trọng hay sao.


4. Đôi điều về Tôn Quyền

So với hai người trên, Tôn Quyền là người có nền tảng vững chắc, xây dựng và củng cố, truyền đến Quyền là đời thứ ba. Nhận định về Tôn Quyền thì không ai có lời đánh giá đắt như Tôn Sách, lúc lâm chung bàn giao lại cho Tôn Quyền: Dẫn quân Giang Đông quyết thắng giữa hai quân, tranh giành với thiên hạ thì em không bằng ta; biết dùng người hiền tài để họ hết lòng hết sức giữ Giang Đông thì ta không bằng em được. 


Giữ Giang Đông, chờ thiên hạ có biến, cũng là chiến lược mà Tôn Quyền được đời trước vạch sẵn cho. Chính Tôn Quyền cũng đã được chọn để thực thi chiến lược đó. Chiến lược sau này của Đông Ngô cũng là luôn thủ vững. Cái sâu sắc của Tôn Quyền là biết chọn người tài, đúng người đúng thời điểm, trao quyền cho họ, để gặt hái thành quả. Từ Chu Du, đến Lỗ Túc, Lã Mông, Lục Tốn, đều được phát huy rất tốt. Mặc dù phải nói rằng, càng về sau độ nhạy bén của nhân tài có phần mòn đi. Thời Tôn Quyền cũng thời Đông Ngô vươn tay với đến vùng Đồng bằng Bắc bộ ngày nay, thu phục con của Sĩ Nhiếp về theo hàng Ngô. Nói ngắn gọn thì Tôn Quyền giỏi cẩn trọng giữ mình, trao quyền cho nhân tài để hưởng phúc của cha anh để lại. Cũng rất gương mẫu biết mình biết ta, xứng đáng gọi là một minh quân.


5. Cuối cùng, tại sao nên đọc Phẩm Tam Quốc?

Phẩm không phải là một công trình khoa học, nhưng được tác giả là GS Dịch Trung Thiên gạn lọc kỳ công chặt chẽ và khoa học, để tìm về nguyên gốc các nhân vật, gạn lọc các sử liệu để hoàn nguyên cho những con người điển hình trong Tam Quốc. Chẳng hạn, khi muốn tìm về ưu điểm của Tào Tháo, ông phải tra cứu tất cả các tư liệu sử để đối chiếu, rồi tìm đến những tác giả có cái nhìn tiêu cực về Tào Tháo để xem họ có đề cập tới khía cạnh đó không, mới lấy đó làm căn cứ khẳng định. Với cách làm khoa học và cẩn trọng đó, thậm chí ông đã chỉ ra không ít sơ hở trong Tam Quốc Chí của Trần Thọ hay các cuốn sử khác. Trên cơ sở hoàn nguyên nhân vật, tác giả sẽ đem so với hình ảnh trong tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa và hình tượng trong sân khấu dân gian.


Tư duy phân tích cắt lớp này sẽ giúp người đọc hiểu rõ về đặc điểm nhân cách của từng nhân vật, đặt trong quá trình xuất thân và trưởng thành của nhân vật đó. Điều này sẽ cung cấp một phương pháp luận, một góc nhìn sâu sắc, mang tính ứng dụng cao cho các nhà lãnh đạo trong công tác quản trị nhân lực và phát triển tổ chức.


Xin trân trọng giới thiệu đến các bạn FB cuốn “Phẩm Tam Quốc” của Dịch Trung Thiên, do Quảng Văn vừa phát hành.


Tien Long Do

21/05/2022


Thursday, May 10, 2018

tau chưởi - Trần Vàng Sao



tau tức quá rồi
tau chịu không nổi
tau nghẹn cuống họng
tau lộn ruột lộn gan

tau đầu tắt mặt tối
đổ mồ hôi sôi nước mắt
vẫn đồng không trự nõ có
suốt cả đời ăn tro mò trú
suốt cả đời khố chuối Trần Minh
kêu trời không thấu
tau phải câm miệng hến
không được nói
không được la hét
nghĩ có tức không
tau chưởi
tau phải chưởi
tau chưởi bây
tau chưởi thẳng vào mặt bây
không bóng không gió
không chó không mèo
….
tau chưởi cho tiền đời dĩ lai bây mất nòi mất giống
hết nối dõi tông đường
tau chưởi cho mồ mả bây sập nắp
tau chưởi cho bây có chết chưa liệm ruồi bu kiến đậu
tam giáo đạo sư bây
cố tổ cao tằng cái con cái thằng nào móc miếng cho bây
hà hơi trún nước miếng cho bây

bây là rắn
rắn
toàn là rắn
như cú dòm nhà bệnh
đêm bây mò
ngày bây rình
dưới giường
trên bàn thờ
trong xó bếp
bỏ tên bỏ họ cha mẹ sinh ra
bây mang bí danh
anh hùng dũng cảm vĩ đại kiên cường
lúc bây thật lúc bây giả
khi bây ẩn khi bây hiện
lúc người lúc ma
……
hỡi cô hồn các đảng
hỡi âm binh bộ hạ
hỡi những kẻ khuất mặt đi mây về gió
trong am trong miếu giữa chợ giữa đường
đầu sông cuối bãi
móc họng bóp cổ móc mắt bọn chúng nó
cho bọn chúng nó chết tiệt hết cho rồi
bây giết người như thế
bây phải chết như thế
ác lai thì ác báo
tau chưởi ngày chưởi đêm
mới bét con mắt ra tau chưởi
chập choạng chạng vạng tau chưởi
nửa đêm gà gáy tau chưởi
giữa trưa đứng bóng tau chưởi
bây có là thiền thừ mười tám con mắt tau cũng chưởi
mười hai nhánh họ bây
cao tằng cố tổ bây
tiên sư cha bây
tau chưởi cho bây ăn nửa chừng mẻ chai mẻ chén
xương cá xương thịt mắc ngang cuống họng
tau chửi cho nửa đêm oan hồn yêu tinh ma quỷ
mình mẩy đầy máu hiện hình vây quanh bây đòi trả đầu trả chân trả tay trả hòm trả vải liệm
tau chưởi  cho cha mẹ bây có chết cũng mồ xiêu mả lạc
đoạ xuống ba tầng địa ngục bị bỏ vào vạc dầu
tau chưởi cho cha mẹ bây có còn sống cũng điên tàn
đui què câm điếc làm cô hồn sống lang thang đầu đường xó chợ
bốc đất mà ăn xé áo quần mà nhai cho bây có nhìn ra
cũng phải tránh xa
tau chưởi cho con cái bây đứa mới đi đứa đã lớn
sa chân sẩy tay đui què sứt mẻ nửa đòi nửa đoạn
chết không được mà sống cũng không được
tau chưởi cho dứt nọc dòng  giống của bây cho bây chết sạch hết
không bà không con
không phúng không điếu
không tưởng không niệm
không mồ không mả
tuyệt tự vô dư
tau chưởi cho bây chết hết
chết sạch hết
không còn một con
không còn một thằng
không còn một mống
chết tiệt hết
hết đời bây

Wednesday, April 18, 2018

Sự kiêu ngạo cộng sản (phần 2)

Tác giả Nguyễn Thông

Hồi các thể chế chính trị trên thế giới còn chia làm hai phe kình địch, lứa 5X chúng tôi ở miền Bắc luôn được nghe từ đài báo nhà nước, từ cán bộ tuyên truyền rằng chủ nghĩa cộng sản là mùa xuân của nhân loại, còn chủ nghĩa tư bản đang tự đào mồ chôn, đang giãy chết. Cứ nghe mãi những điều ấy rồi cũng thành niềm tin mặc dù chẳng biết chủ nghĩa cộng sản lẫn chủ nghĩa tư bản mặt mũi ngang dọc như thế nào. Cái mùa xuân mà họ nói thì quá xa xôi, chưa biết bao giờ mới theo chim én về, còn tư bản khi nào chết cũng chả biết. Mọi thứ đều rất mơ hồ, chỉ có nghèo đói, chiến tranh, xung đột, nồi da xáo thịt... là có thực, phải chứng kiến hằng ngày.
Phải thừa nhận người cộng sản, dù ở Liên Xô, Trung Quốc hay Việt Nam, rất giỏi tuyên truyền. Họ nắm được quyền lực, độc quyền quyền lực, rất mạnh tay thực hiện chuyên chính vô sản, huy động hết tất cả cung bậc của bộ máy tuyên truyền, lại cộng thêm thuật mị dân siêu hạng, nên có những thứ họ tưởng tượng ra tuy chỉ là bánh vẽ nhưng phần đông dân chúng cũng tin là thực. Dường như bất cứ điều gì họ chủ trương, nêu ra, họ (người cộng sản) đều tự cho là chân lý, bắt dân phải tin đó là chân lý. Chẳng hạn họ luôn đề cao chủ nghĩa duy vật, chống lại mọi quan điểm duy tâm; đề cao tập thể, chống tôn sùng cá nhân… nhưng trên thực tế thì ngược lại. Chính họ duy tâm siêu hạng, tôn thờ cá nhân, sùng bái cá nhân siêu hạng.
Trước hết, có thể thấy rõ sự kiêu ngạo cộng sản lộ rõ ở những từ ngữ, khẩu hiệu mà họ thường dùng. Hằng ngày luôn bắt gặp trên sách báo, trong những bản tin đài phát thanh, trên cửa miệng của cán bộ tuyên truyền, trên những bức tường khắp vùng thành thị lẫn nông thôn những từ: muôn năm, mãi mãi, vô địch, đời đời bền vững, sống mãi, bách chiến bách thắng, bất diệt, vinh quang…, tất cả đều hàm chứa sự duy ý chí, phản lại quy luật cuộc sống. Đi đâu cũng gặp những câu khẩu hiệu dạng: Chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến cách thắng vô địch muôn năm, đảng lao động VN quang vinh muôn năm (giờ đây câu này gần như hiện diện 100% trên sân khấu tại các hội trường cơ quan đơn vị, chỉ khác tí ti là thay chữ lao động bằng chữ cộng sản), đảng là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng, chủ tịch… sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta, tình hữu nghị Việt-Xô (Việt-Trung) đời đời bền vững, tinh thần cách mạng tháng Tám bất diệt… Hồi mấy chục năm trước, tôi đi xe lửa qua chỗ nhà máy xi măng Bỉm Sơn (do Liên Xô giúp xây dựng) thấy trên nóc nhà máy câu khẩu hiệu đúc bằng bê tông to vật vã “Tình hữu nghị Việt-Xô đời đời bền vững”, sau nó mất đi lúc nào không biết. Là người duy vật, lẽ ra họ phải hiểu hơn ai hết rằng chẳng có cái gì tồn tại mãi mãi, bất diệt, vững bền muôn thuở, chẳng có gì hoàn hảo không tì vết. Mặt trời còn có lỗ đen, ngọc họ Hòa còn bị mẻ, nói chi con người, xã hội loài người. Thế nhưng họ cứ thích nói ngược.
Sự sùng bái cá nhân của người cộng sản dường như một phần được hình thành từ sự kiêu ngạo. Với họ, cứ là lãnh tụ thì sẽ là thần thánh, là đỉnh cao chói lọi, sáng như vầng thái dương, đẹp hơn cả mùa xuân. Mỗi lời nói của lãnh tụ chả khác gì châu ngọc, gấm thêu. Những Lênin, Mao Trạch Đông, Stalin, Kim Nhật Thành, Castro, và cả cụ Hồ, đều được họ ca tụng cực kỳ mẫu mực, đẹp đẽ. Còn hơn cả phật, cả chúa. Không ai được động vào thần tượng. Nói đâu xa, ngay cỡ lãnh tụ tầm vừa vừa ở xứ ta, như các vị Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh…, tới dịp kỷ niệm ngày sinh ngày mất là cứ ồn ào như hội, đó là chưa kể xây dựng đủ thứ nhà tưởng niệm nọ kia khiến thiên hạ cảm tưởng đó là thánh chứ không phải người.
Tự xưng là lực lượng tiến bộ nhất của xã hội loài người, có tư duy khoa học, nhìn nhận sáng suốt, suy nghĩ biện chứng… nên họ rất kiêu ngạo. Chắc nhiều người còn nhớ, sau cuộc nội chiến kéo dài suốt hơn 20 năm, người cộng sản giành phần thắng. Thắng nên càng sinh kiêu ngạo, dù luôn mồm bảo "thắng không kiêu, bại không nản". Sau ngày 30.4.1975 rất phổ biến tâm lý rằng “từ nay đất nước ta hoàn toàn giải phóng, vĩnh viễn độc lập tự do”, “đất nước ta đã thu về một mối, vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của đế quốc thực dân, vĩnh viễn sạch bóng quân thù, hoàn toàn tự do độc lập”. Những câu trên tôi trích trong Lời giới thiệu cuốn “Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội” của Nhà xuất bản Sự Thật (nhà xuất bản riêng của đảng), xuất bản tháng 8.1975 (tôi đang có cuốn sách này). Và không chỉ trong sách, chính Tổng bí thư Lê Duẩn cũng từng rất hào hứng khẳng định trong diễn văn tại lễ kỷ niệm quốc khánh 2.9.1975 rằng kể từ nay đất nước vĩnh viễn sạch bóng quân thù, thênh thang con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự mừng rỡ say chiến thắng thái quá cùng sự kiêu ngạo đã làm họ không thấy những tai họa cận kề đang rình rập, kéo dài mãi tận bây giờ.
Nhưng có thể châm chước cho những suy nghĩ như thế khi ở vào thời điểm núi lửa lịch sử phun trào dung nham quá nóng quá mạnh, chứ mãi về sau gần nửa thế kỷ, khi đất nước đang loay hoay xóa đói giảm nghèo, lo tụt hậu, ở khoảng cách rất xa so với những nước trước kia cùng xuất phát điểm với mình, tham nhũng tràn lan, đạo đức xuống cấp, văn hóa lộn xộn, dân chủ bị co hẹp… thế mà người đứng đầu đảng vẫn sung sướng tự hào “từ xưa đến nay, đất nước có bao giờ được thế này chăng”, “Quảng Trị đẹp nhất từ xưa đến nay”, “Dân chủ đến thế là cùng”… Đó là cái nhìn, cách nghĩ của anh binh nhì tập đội ngũ dậm chân tại chỗ chứ không phải của người đang làm chủ cuộc sống, chứ chưa nói gì ở vai trò cai trị nhân dân, lãnh đạo cuộc sống.
Chính thói kiêu ngạo cũng đã làm xói mòn phẩm chất đẹp đẽ từng có của người cộng sản. Đã có thời họ gắn bó với nhân dân, cùng vui cùng buồn, cùng chia bùi sẻ ngọt. Nhưng dần dần thói kiêu ngạo đã tách cá ra khỏi nước, kiểu như ông Bộ trưởng, Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng hùng hồn tuyên bố “Nếu ta sai thì ta xin lỗi, còn nếu dân sai thì dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Chắc nhiều người còn nhớ nhận xét nổi tiếng của bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, đại loại “dân chủ của ta còn dân chủ gấp vạn lần dân chủ tư bản”. Dạng “lời hay ý đẹp” như thế nhiều lắm, chả thể kể ra hết được.
Thôi thì, nói như nhà thơ Việt Phương “Ta đã thấy những vết bùn trên các vì sao”, chỉ ra vết bùn sự kiêu ngạo của “sao”, tôi chỉ có mong muốn họ lắng nghe, thực tâm gột rửa để ngày càng trở nên sạch sẽ, gần gũi với mọi người dân trên đất nước này.

Nguyễn Thông

Friday, February 16, 2018

Hoàng Phủ Ngọc Tường sắp chết vẫn nói dối

BS.Trần Văn Tích Hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan vốn bà con gần với tôi vì chúng tôi cùng có chung một ông cố, đó là Tuần vũ Hoàng Hữu Xứng. Năm 1882, khi Henri Rivière đánh thành Hà nội thì Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết còn Tuần vũ Hoàng Hữu Xứng thì tuyệt thực. Tuần vũ Hoàng Hữu Xứng là cố nội của Hoàng Phủ Ngọc Tường-Hoàng Phủ Ngọc Phan còn tôi thì gọi Ông là cố ngoại. Thân phụ cặp bài trùng Việt cộng ác ôn vì là con quan lớn nên được tập ấm, tôi gọi là cậu Ấm Hoàng Hữu Dực. Thời Pháp thuộc, cậu Ấm Dực làm xếp ga An cựu, Huế. Bài viết hôm nay tập trung vào một chi tiết duy nhất gạn lọc ra từ đoạn văn sau đây, mới được phổ biến rộng rãi trên mạng lưới vào ngày đầu tháng hai này. Trích : “Để chứng tỏ mình là người trong cuộc, tôi đã dùng ngôi thứ nhất- “tôi”, “chúng tôi” khi kể một vài chuyện ở Huế mậu thân 68. Đó là những chuyện anh em tham gia chiến dịch kể lại cho tôi, tôi đã vơ vào làm như là chuyện do tôi chứng kiến. Đặc biệt, khi kể chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viên nhỏ ở Đông Ba chết 200 người, tôi đã nói: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu …Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra ..”. Chi tiết đó không sai, sai ở chỗ người chứng kiến chi tiết đó không phải là tôi, mà là tôi nghe những người bạn kể lại. Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi.“ Hết trích. (Tôi tôn trọng cách trình bày về hình thức của tài liệu, nhất là những dòng chữ tô đậm trong nguyên văn.) Theo các chi tiết phổ biến trên internet thì Hoàng Phủ Ngọc Tường, 81 tuổi, hiện lâm bệnh nặng, đã đọc cho con gái chép lại lời y thành bài viết xuất hiện dưới đầu đề “Lời cuối cho câu chuyện quá buồn“. Như đã báo trước, cá nhân tôi không đếm xỉa đến những lời thanh minh trần tình của tên Việt cộng sắp chết mà chỉ chú trọng vào lời kể của y, theo đó ở Đông Ba có một bệnh viện nhỏ bị máy bay Mỹ thả bom giết chết hai trăm người. Người viết đặt tiền đề như vậy làm giả thuyết – nghĩa là nêu vấn đề ra theo tinh thần khoa học để giải thích một hiện tượng ngoài đời hay trong tự nhiên nào đó (trong trường hợp này là vụ gọi là Mỹ thả bom giết hai trăm người ở một bệnh viện toạ lạc tại Đông Ba, Huế) – và tạm chấp nhận sự kiện liên hệ tuy chưa thể kiểm nghiệm, chứng minh hầu căn cứ vào đó mà phân tích, suy luận. * Những ai ở Huế lâu ngày đều biết đến các cơ sở điều trị quân dân y : Bệnh viện Trung ương Huế trên đường Lê Lợi cạnh dòng Hương giang, Quân y viện Nguyễn Tri Phương trong Mang Cá, nhà Hộ sinh ở Tây Lộc. Các khu vực Đông Ba, Gia Hội là những vùng buôn bán sầm uất, có nhiều phố xá nhộn nhịp, có nhiều nhà cửa dân chúng đông đúc. Không có khoảnh đất trống nào đủ rộng lớn để xây một bệnh xá hay bệnh viện nhỏ. Nếu Mỹ thả bom trúng bệnh viện mà chết ngay một lúc đến hai trăm người thì cơ sở khám bệnh và nhận người ốm đau nằm điều trị phải được trang bị ít nhất cũng năm mươi giường bệnh. Thế nhưng không người dân Huế nào biết đến hay nhận được công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định về y khoa phòng ngừa, y khoa chẩn đoán, y khoa điều trị dành cho số đông, có tổ chức thành nề nếp và có tiếng vang trong vùng; chỉ có bọn Vẹm từ trên rừng về là sưng sưng bảo rằng có một cơ sở y khoa như vậy! Vạn nhất nếu bom “đế quốc“ vô tình đánh sập bệnh viện, giết một loạt hai trăm người thì đám truyền thông cộng sản hay thân cộng tại sao đều câm như hến và mù tịt cả lũ? Chúng luôn luôn theo dõi rất kỹ các tội ác do “đế quốc Mỹ, kẻ thù của nhân dân ta và nhân dân thế giới“ gây ra cơ mà, đời nào chúng chịu ngậm câm nhắm mắt trước một vụ thảm sát lớn lao như vậy? Chúng chả rêu rao ầm ỹ vụ được chúng tuyên truyền là “giặc lái Mỹ“ ném bom xuống khu Khâm Thiên, Hà Nội gây tổn hại cho bệnh viện cận kề là gì? Chúng thổi phồng vụ chuồng cọp ở các trại giam Việt cộng tại Côn Đảo, Phú Quốc một cách vô liêm sỉ. Chúng láo khoét bảo phe quốc gia đã đầu độc hàng loạt tù hàng binh; sau ngày 30.04, lại cũng chính chúng trơ tráo sượng sùng công nhận là không hề có chuyện đó. Cái lối mô tả Mỹ ném bom giết hai trăm người ở Bệnh viện Đông Ba cũng cùng bài bản với lời tố cáo của nhà sư Thích Nhất Hạnh theo đó Mỹ thả bom giết ba trăm ngàn dân Bến Tre trong khi thực ra dân số toàn tỉnh Bến Tre chỉ có chưa đến một trăm ngàn người. Vả lại miệng lưỡi điêu ngoa của Việt cộng chuyên môn đưa ra những con số nạn nhân phóng đại một cách nham hiểm và tròn trịa một cách ngu ngốc. Lê Duẩn đã từng tuyên bố là “Mỹ Diệm“ lê máy chém đi khắp nơi chặt đầu năm trăm đảng viên cộng sản. Toàn là những con số tròn trặn tròn vo. Năm trăm của Lê Duẩn, hai trăm của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ba trăm ngàn của Thích Nhất Hạnh! Tuy nhiên Hoàng Phủ Ngọc Tường chỉ biết ăn gian nói dối mà ăn gian nói dối một cách ngu xuẩn, u mê. Thoạt tiên cặp bài trùng đội lốt quỷ sứ họ Hoàng Phủ trút tội lên đầu Mỹ, chúng bù lu bù loa bảo pháo và bom của Mỹ giết đồng bào Huế nhưng đến khi đồng bào Huế và chứng nhân nước ngoài quan sát thấy các thi hài khai quật từ những hố chôn tập thể chỉ mang những vết thương bằng vũ khí đạn dược, thậm chí bị đánh vỡ sọ gãy tay, bị trói cánh khủy nằm chồng lên nhau, chứ không hề có mảnh bom hay viên đạn nào của Mỹ trong thi thể thì chúng thấy mình bị hố nặng. Thếnhưng biết bị hố thì trễ quá rồi, mặt nạ Satan Mephisto đã hiện guyên hình quá rõ. Ăn gian mà ngu, nói dối mà đần, phải chăng vì vậy mà cả Hoàng Phủ Ngọc Tường lẫn Hoàng Phủ Ngọc Phan đều coi như hoàn toàn thất sủng sau ngày 30.04 mặc dầu cả hai tên đều đã mang trên hình hài một thành án, một thiết án muôn đời không cởi bỏ được. * Mỗi con người đều là một thành viên của lịch sử. Quyết đoán về một nhân vật lịch sử là việc không phải dễ và càng lên tiếng mạnh mẽ càng hay rơi vào sai lầm. Mục đích nên nhằm khi nhìn lại quá khứ lịch sử là tìm hiểu một cách tương đối vô tư để nhận định cho chính xác, may ra sẽ rút được phần nào kinh nghiệm cho cuộc sống vốn rất dễ bị xáo trộn khuấy động do những sự bồng bột nhất thời có thể che khuất lương tri.. Dẫu sao đi nữa thì với kẻ thành tâm tìm hiểu việc nước, thái độ bình tĩnh nhận xét, tinh thần phân tích khoa học là những điều kiện thuận lợi để tới gần sự thật. Trước khi chết, Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn gột rửa phần nào tội ác tày trời đối với đồng bào nhất là đồng bào Huế. Huế là nơi y chào đời, lớn lên, ăn học và giảng dạy. Cộng sản mà đứng trước ngưỡng cửa tử sinh thì cũng phải thấy là việc trọng đại. Biện pháp duy nhất chỉ có thể là đổ tội cho tha nhân, và dễ dàng hơn nữa, cho ngoại nhân. Bom Mỹ đã giết hai trăm đồng bào vô tội ở Đông Ba, Hoàng Phủ Ngọc Tường quả quyết một cách rất đần độn như vậy. Nhưng dữ kiện này, vẫn theo chính mồm miệng điêu ngoa của y, vốn xuất phát từ một tên Việt cộng khác; y chỉ nhập nhằng, lưu manh quơ vào cho mình. Làm sao y dám nhận xằng như vậy một khi chẳng có bằng chứng cụ thể, khách quan nào cả? Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gian mà lại ngu. Sống thì gian và ngu, gần chết lại càng gian và ngu hơn. FEB 11, 2018 Trần Văn Tích

Sunday, February 4, 2018

VÀI LỜI VỚI ANH NGUYỄN CÔNG KHẾ VÀ BẠN BÈ

VÀI LỜI VỚI ANH NGUYỄN CÔNG KHẾ VÀ BẠN BÈ - HOÀNG HẢI VÂN Những điều tốt đẹp tôi viết về anh Nguyễn Công Khế trong những câu chuyện liên quan đến anh đã đăng trên báo Thanh Niên, trên blog và trên facebook này, giờ nếu phải viết lại thì một chữ cũng không thay đổi. Những người khác hiểu những bài viết đó như thế nào tôi không quan tâm, bạn bè tôi hầu hết hiểu đúng, dù có người phải đến 10 năm mới hiểu. Nhưng điều đáng buồn là chính anh Nguyễn Công Khế lại không hiểu thấu đáo được tư cách của tôi. Dù anh Khế chỉ lớn hơn tôi vài tuổi nhưng tôi chưa bao giờ coi anh là bạn bè. Tôi coi anh là một vị thủ trưởng đáng kính và giờ vẫn coi anh là một vị thủ trưởng cũ đáng kính. Anh có đầy đủ phẩm chất để tôi suốt đời kính trọng. Nhờ anh mà tôi đã phát huy hết khả năng của một người làm báo chuyên nghiệp ở báo Thanh Niên. Đó là ơn tri ngộ. Nhưng tôi không phải là “cánh tay”, không phải là “đệ tử” của anh. Anh tôn trọng tôi, nên cũng không hề có ý định biến tôi thành một công cụ như thế. Hồi anh còn làm báo Thanh Niên, nhiều khi sáng thức dậy anh gọi điện, bảo sao tôi cứ nhè bạn của anh mà “đánh” hoài thế, khiến cho họ chửi anh, anh nói là nói vậy chứ không hề bảo dừng lại không đăng bài phê phán bạn anh nữa. Nhiều phóng viên gặp chuyện này chuyện kia có hỏi tôi, rằng người này người kia thân với anh Khế, có viết bài phê phán được không. Tôi nhiều lần đã phải nói rõ, nếu vi phạm pháp luật thì dù có thân với ai cũng không bỏ qua. Tôi đã viết những điều tốt đẹp về anh, không phải vì cái ơn tri ngộ kia, mà vì muốn truyền một cảm hứng cho các bạn làm báo trẻ, rằng làm báo phải chính trực như thế. Cho đến gần đây. Tôi viết loạt bài “Sơn Trà ký sự” đăng trên báo điện tử Một Thế Giới. Tờ báo này được vận hành bởi Tập đoàn Truyền thông Thanh niên do anh Khế làm Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc (điều này có giới thiệu công khai trên trang chủ tờ báo). Có lẽ do không có điều kiện trực tiếp tìm hiểu vấn đề, loạt bài lại có nhiều đụng chạm, nên đăng 8 kỳ thì lãnh đạo báo yêu cầu dừng lại không viết nữa, trong 8 kỳ đó có gỡ xuống 1 kỳ. Tôi phản ứng kịch liệt với anh Khế. Anh bảo anh không biết. Anh có biết và có can thiệp để gỡ bài hay không thì tôi không rõ, nhưng tôi không có lý do gì để “sững cồ” lên với anh, vì anh đâu có phải là tổng biên tập tờ báo đó. Nhưng tôi có thể hiểu, anh lo cho sự an toàn của một tờ báo điện tử còn non trẻ, sự lo lắng đó là chính đáng, đã chấp nhận đăng được chừng ấy bài là quá tốt rồi. Không tiếp tục đăng những vấn đề tôi am hiểu về Đà Nẵng trên báo Một Thế Giới nữa, tôi viết bài đưa lên facebook này. Anh Khế không có quyền gì đối với tôi, nhưng từ khi tôi đưa stt Vũ nhôm và “thần tượng” Nguyễn Bá Thanh, anh Khế liên tục gọi điện ngăn cản. Tôi nghĩ anh lo cho sự an toàn của tôi là một chuyện, điều quan trọng hơn là anh vốn là bạn của ông Nguyễn Bá Thanh, anh không muốn người khác đụng đến một người bạn đã qua đời. Xin lưu ý là không chỉ anh Khế, mà ngay cả một số vị lãnh đạo tôi cho là chính trực của Đảng ở Trung ương trước đây vẫn đánh giá cao về ông Nguyễn Bá Thanh, bằng chứng là ông ấy đã được rút ra Hà Nội làm Trưởng ban Nội chính Trung ương và nghe nói có đề nghị vào Bộ Chính trị (nhưng không thành). Tôi tôn trọng tấm lòng của anh Khế đối với bạn, cũng như tôi tôn trọng quan điểm của anh Nguyễn Quốc Phong (cựu Phó Tổng Biên tập báo Thanh Niên), cũng là người thân thiết với anh Khế, khi anh ấy viết bài ca ngợi ông Nguyễn Bá Thanh sau loạt bài của tôi. Không muốn tôi viết những bài như vậy, anh Khế nhiều lần gọi điện nói khéo, rằng “tầm cỡ” của tôi phải viết những bài có “tầm cỡ” hơn, rằng tôi không nên viết những chuyện “lặt vặt” như thế. Tôi trả lời anh, tôi là thường dân, chẳng có “tầm cỡ” gì, tôi chỉ biết gì nói vậy thôi. Vì vậy, tôi vẫn cứ viết những gì tự tôi thấy cần phải viết, vì không “chạm” đến ông Nguyễn Bá Thanh thì những vấn đề của Đà Nẵng không bao giờ có thể giải quyết được rốt ráo. Và hôm qua, có một bạn link vào facebook tôi một bài viết trên mạng xã hội, nói rằng anh Khế đã sử dụng một “đệ tử” là tôi đây, để viết bài triệt hạ ông Nguyễn Bá Thanh và Vũ nhôm nhằm giúp cho ai đó “thâu tóm các dự án của Vũ nhôm”. Mục đích của bài viết này là công kích bêu xấu anh Nguyễn Công Khế và bảo vệ Vũ nhôm, nhưng chỉ riêng cái chi tiết bịa đặt trắng trợn này cũng đủ cho thấy toàn bộ những gì mà bài viết đó nêu ra đều không có giá trị. Tôi gọi điện cho anh Khế, anh bảo anh đã đọc rồi. Tôi không quan tâm người ta nói gì về tôi, càng không quan tâm đến những thứ fake news của bọn cóc nhái trên mạng xã hội. Nhưng tôi hơi buồn và hơi thất vọng, vì anh Khế có ý trách rằng do những bài viết của tôi mà bọn họ đã “đánh” anh ấy. Anh đã không giấu được tâm lý của một bề trên, khi buột miệng nói rằng tôi thì có gì để mà bọn họ “đánh”, tôi làm gì để bọn họ thù thì bọn họ chỉ “đánh” anh ấy thôi. Tôi thấy áy náy, nói để tôi viết một cái stt giải thích là những gì tôi viết không có liên quan đến anh, nhưng anh nói không cần. Không cần, mà vẫn oán trách. Tôi thấy thiệt là khó xử. Tôi tưởng lòng tôi bằng phẳng trước mọi thị phi. Nhưng khi tí tởn tham gia cái mạng xã hội này thì không thoát khỏi thị phi được. Những dòng này được viết ra chắc anh Khế không thích, nhưng tôi không thể không viết ra đây. Tôi không danh không tiếng gì, cũng không cầu danh cầu lợi, nhưng là một cá nhân độc lập, chỉ mong được ăn một ngày ba bữa bằng thu nhập lương thiện của mình, được làm những gì mình thích, viết những gì mình cho là đúng và tự chịu trách nhiệm về những gì mình viết. Ơn nghĩa thì không quên, nhưng lương tâm thì không thể không ngay ngắn. Mong anh Khế, người thân của anh Khế và những người tử tế hiểu cho, còn đám cóc nhái trên mạng xã hội kia thì mặc kệ đi ! HOÀNG HẢI VÂN

Friday, June 30, 2017

Cộng sản có đối thoại được không?

Mới đây trưởng ban tuyên giáo trung ương, uỷ viên bộ chính trị trẻ nhất trong số các uỷ viên bộ chính trị của cộng sản VN là Võ Văn Thưởng đã phát biểu.
 
“Ban Tuyên giáo Trung ương đang chờ Ban Bí thư thông qua một văn bản hướng dẫn về việc "tổ chức trao đổi và đối thoại với những cá nhân có ý kiến và quan điểm khác với đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đây là vấn đề rất quan trọng. Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận. Và cũng chính sự tranh luận đó tạo ra cơ sở để hình thành chân lý.
Phát biểu như thế này từ một uỷ viên bộ chính trị, trưởn ban tuyên giáo gây xôn xao dư luận là việc đương nhiên. Phần lớn những người mà ông Thưởng liệt kê vào dạng cần đối thoại đã tỏ ý nghi ngờ đằng sau phát biểu ấy là một âm mưu. Điều này cũng không có gì lạ, bởi trong quá trình hàng mấy chục năm cầm quyền, chuyện nói dối hoặc hứa rồi nuốt lời của lãnh đạo cộng sản xảy ra thường xuyên và cho đến tận bây giờ họ cũng đang như cũng vậy.
 
Các giả thiết đưa ra cho rằng đây là âm mưu lừa đảo, mị dân, khơi cho trăm hoa đua nở rồi tận diệt như bên Tàu. Cái này đúng, trước kia đúng và bây giờ vẫn đúng. Bằng chứng là chính lúc ông Thưởng đặt vấn đề như vậy, thì thực tế diễn ra ngay trong lúc ông nói là chính quyền gia tăng đàn áp những người bất đồng chính kiến bằng những thủ đoạn tàn bạo và nham hiểm mạnh tay hơn.
Hoặc có thể cộng sản Việt Nam dựng nên đối thoại nhằm mục đích biện minh và lấy uy tín cho mình, họ sẽ cho những người dễ dãi hoặc những chim mồi giả vờ tham gia đối thoại, sau đó công nhận đảng CSVN đang có hướng đi đúng, có thành quả này kia. Họ cũng nêu một chút gì đó để trách cứ chế độ cộng sản cho ra vẻ khách quan. Để rồi sau đó đảng CSVN tuyên truyền đã đối thoại thẳng thắn và được đa số ủng hô, tán thành chủ trương của họ. Còn một số khiếm khuyết do khách quan không đáng kể, nước nào cũng có sẽ khắc phục dần.
 
Nhưng tuy nhiên cũng nên thử đặt một cạnh nhìn khác, dù khả năng của nó chỉ chiếm một phần nhỏ nhoi hy vọng, đó là đặt vấn đề cho rằng ông Thưởng nói thật.
Vậy trong trường hợp nào thì ông Thưởng nói thật tâm.?
Trường hợp trong nôi bộ đảng cộng sản có những nhóm thực lòng muốn đối thoại với dân, để mong thế hệ lãnh đạo tương lai của cộng sản với người dân có những điều dễ gần hơn, dễ nói chuyện hơn, không có những khoảng cách như nhân dân và lãnh đạo bây giờ. Điều này có thể xảy ra vì cộng sản luôn tính trước những tình huống xấu dự phòng.
 
Ông Võ Văn Thưởng là uỷ viên BCT trẻ nhất trong các uỷ viên Bộ chính trị bây giờ, có thể nói ông là đại diện cho thế hệ lãnh đạo của hai nhiêm kỳ sau này. Bản thân ông Thưởng là người không có điều tiếng gì xấu so với các lãnh đạo khác, bởi những vị trí của ông đã kinh qua không phải là những vị trí dễ bị dính vào vòng xoáy của tham nhũng, lợi ích nhóm. Xét thêm yếu tố này cùng với yếu tố trước thì câu chuyện khả năng cộng sản Việt Nam có thể mong muốn đối thoại là có thật, nhưng nó không phải là bây giờ, và hơn hết nó chỉ là một phương án dự phòng của chế độ cộng sản cho tương lai.
Không phải phát biểu trên của ông Thưởng bị những nhà đấu tranh nghi ngờ và chỉ trích nặng lời, mà ngay cả những cán bộ của đảng lão thành, thủ cựu về hưu cũng như đang tại chức cũng khó chịu khi thấy ông Thưởng nói vây.. Với sự kiêu ngạo về quyền lực độc tài tuyệt đối của đảng CSVN có được nhiều năm qua, họ cảm thấy những phát ngôn của ông Thưởng là sự xuống nước của đảng, làm cho dân chúng không còn sợ đảng, mất đi sức mạnh của đảng , tức chính là mất đi quyền lực của họ.
Nếu như phát biểu này của ônng Võ Văn Thưởng xuất phát từ miệng ông Đinh Thế Huynh, Nguyễn Phú Trọng...chắc hẳn đó là sự lừa đảo, vì bản chất của những người như ông Trọng, ông Huynh là những kẻ bảo thủ đang cố gắng gia tăng quyền lực của đảng, bất chấp sự phi dân chủ và tiến bộ. Nhưng nếu từ một uỷ viên BCT trẻ tuổi như ông Thưởng, người cũng ít thấy dư luận phê phán ở những cương vị ông trải qua. Thiết nghĩ việc đề phòng cộng sản Việt Nam nói dối phải đặt hàng đầu, nhưng cũng nên để một góc nhỏ để suy ngẫm về những phát ngôn này theo hướng tích cực. Khi cộng sản Việt Nam đã đưa ra những biện pháp thuộc dạng đề phòng cho tương lai như thế này, chúng ta cũng nên cân nhắc vấn đề, dù không tin tưởng nhưng không có nghĩ người bất đồng chính kiến bác bỏ hoàn toàn, những người đấu tranh cũng nên đặt ra những tình huống dự phòng cho dù tỷ lệ hy vọng việc đó thành công là chỉ vài phần trăm.
 
Những người trí thức đấu tranh ôn hoà từng bị tù đày về bất đồng chính kiến với chế độ như Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung , Lê Quốc Quân, Phạm Hồng Sơn và nhiều người khác ở trong nước có thể thống nhất với nhau để cử ra đại diện bất đồng chính kiến để đề nghị đối thoại với ông Võ Văn Thưởng xem thái độ và hành xử của vị uỷ viên Bộ Chính Trị, trưởng ban tuyên giáo này ra sao, đó cũng là một cách đấu tranh ôn hoà , dân chủ và tiến bộ. 
 
Nếu bị khước từ, hay bị những thủ đoạn cản trở thì đó cũng là cách lột mặt nạ gian dối của chế độ này cho quốc tế và nhân dân trong nước thấy rõ hơn.
 
-- Người Buôn Gió