Thursday, June 9, 2011

Trò chuyện với ông Vũ Khoan (Phần II)

Trò chuyện với ông Vũ Khoan (Phần I)

“Lễ tân ngoại giao Hồ Chí Minh”, lễ tân đậm “tính nhân văn”, lễ tân “phá cách”…là những nội dung mà anh Vũ Khoan trò chuyện với Lều văn Thăng Sắc lần này. Bằng những trải nghiệm của chính mình, anh Vũ Khoan không chỉ chia sẻ với mọi người những đúc kết có tính lý luận mà còn kể lại những câu chuyện “cười ra nước mắt” chung quanh một công tác rất quan trọng của nghề ngoại giao : công tác lễ tân.


Lều văn Thăng Sắc xin giới thiệu phần II cuộc trò chuyện với anh Vũ Khoan.

II- LỄ TÂN NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH

Lều văn Thăng Sắc :

- Thưa anh, có ý kiến cho rằng lễ tân kỹ thuật là cần thiết nhưng nó mới chỉ là lễ tân hình thức, chưa có hồn. Theo anh, cái hồn của lễ tân ngoại giao là gì ?

Anh Vũ Khoan :

- Ngoại giao không chỉ là lễ tân nhưng ngoại giao không thể thiếu lễ tân. Nói nôm na thì lễ tân ngoại giao là như những nghi lễ đón tiếp khách nước ngoài; tổ chức các chuyến thăm nước ngoài của lãnh đạo; bảo đảm các nghi thức tiến hành các cuộc tiếp xúc, hội đàm, ký kết, chiêu đãi, mít-tinh, giao lưu, tham quan và cả ma chay nữa...Nói thì ngắn gọn vậy thôi chứ đằng sau chúng là hàng trăm, hàng nghìn đầu việc cụ thể, tỷ mỉ khác nhau. Trên thế giới người ta đã viết rất nhiều sách về các nghi lễ ngoại giao; nó trở thành một môn học chính thống trong các trường, lớp ngoại giao. Mình không được đào tạo đến nơi đến chốn về công tác ngoại giao, kể cả công tác lễ tân nên nhiều việc biết được nhờ “học lỏm” qua thực tế và qua sự quan sát xem thiên hạ làm thế nào.


Thực ra lễ tân ngoại giao hiện đại thường tuân theo các nghi thức của phương Tây, bắt đầu từ các nghi lễ cung đình rồi dần rà được “dân chủ hóa”, đơn giản hóa và địa phương hóa cho phù hợp với truyền thống của mỗi quốc gia.




Trong ảnh : Bác Hồ và Bác Tôn tiếp ông Tréc-van-cốp, phía sau là anh Vũ Khoan

Ở nước ta, lễ tân ngoại giao cũng tuân theo các quy định, thông lệ quốc tế nhưng mang nhiều sắc thái Việt Nam. Người để lại dấu ấn sâu đậm nhất về phương diện này chính là Bác Hồ. Nói một cách đơn giản nhất , cái hồn của lễ tân ngoại giao Việt Nam hay lễ tân ngoại giao Hồ Chí Minh chính là “tính nhân văn”, “ tính con người”(human being); loại bỏ sự quan cách, bệnh hình thức phù phiếm. Ta đã từng được nghe nhiều về chuyện Bác Hồ mang theo quả táo từ quốc yến của Chính phủ Pháp khoản đãi để cho cháu bé nghèo ở cửa; tự Người vác trên vai tấm thảm do Tổng thống Ấn độ tặng trên lễ đài cuộc mít tinh với hàng vạn người tham gia để chào mừng Người…

Riêng tôi đã được chứng kiến nhiều cử chỉ “phá cách”, đầy tính người của Bác trong các hoạt động ngoại giao. Tôi xin kể vài chuyện mình được mục sở thị. Mỗi khi sang thăm Liên Xô Bác thường được bạn bố trí ở biệt thự trên đồi Lê-nin hoặc ở ngoại ô Mat-xcơ-va. Tất nhiên sự phục vụ ở những nơi đó vô cùng chu đáo và trang trọng. Thế mà Bác lại không cho các cô phục vụ bưng thức ăn cho từng người mà yêu cầu để thức ăn trên nóc tủ buyt-phê, ai muốn ăn gì tự ra lấy, ăn xong tự dọn bát đĩa bẩn vào bếp. Tôi thưa với Bác rằng, bạn rất khó xử vì không bảo đảm nghi thức lễ tân, vả lại tới ăn còn có cả các nhà lãnh đạo Liên Xô. Bác nói, cứ làm như vậy, chắc các đồng chí ấy cũng thông cảm và làm theo. Quả nhiên các nhà lãnh đạo Liên Xô đến ăn cơm với Bác rất vui vẻ làm theo.

Một lần Đoàn đại biểu Quốc hội Bun-ga-ri sang thăm Việt Nam. Dẫn đầu đoàn là ông Vưn-cô Tréc-van-cốp, nguyên là Tổng Bí thư BCH TW Đảng sau khi Đ. Đi-mi-trốp từ trần (Đi-mi-trốp vốn là Tổng Bí thư Quốc tế Cộng sản từng hiên ngang trước tòa án của Đức Quốc xã vu cáo ông chủ mưu đốt Nhà Quốc hội Đức). Sau đận “chống sùng bái cá nhân” do Khơ-rút-sôp phát động, ông Tréc-van-cốp bị thất sủng và đương nhiên tâm tư không được thoải mái lắm. Hơn nữa khi đoàn đi thăm Hải phòng lại xẩy ra một vụ việc động trời: khi đoàn xe của đoàn dừng lại ở cầu Phú lương hay Lai vu gì đó để chờ tầu hỏa đi qua, anh em bảo vệ ta đã lên hết đường tầu để…”giải quyết vấn đề”. Tôi cùng ngồi xe với ông bà Tréc-van-cốp (bà đó là em gái Đi-mi-trốp) cùng ông Tôn Quang Phiệt, Phó Chủ tịch Quốc hội. Vừa mở cửa xe ra, thấy cảnh ấy, mặt đỏ như gấc, ông đóng sầm cửa lại và từ đó lầm lì không nói gì nữa. Về Hà nội tôi báo cáo Bác và các đồng chí lãnh đạo; Bác đã chỉ thị thi hành kỷ luật và thay toàn bộ lực lượng bảo vệ Đoàn. Sáng hôm sau, sáng tinh mơ tôi trực ở Nhà khách 12 Ngô Quyền được tin Bác xuống. Bác bảo tôi thông báo cho ông bà Tréc-van-côp biết. Khi tôi gõ cửa phòng ông ta thò cổ ra, mặt hầm hầm. Tôi vội thông báo Bác Hồ tới thăm và đúng lúc ấy Bác từ đầu hành lang lững thững tiến lại. Thế là ông bà vội ra đón Bác trong một tư thế vô tiền khoáng hậu về lễ tân ngoại giao: ông ấy vẫn mình trần, chỉ quấn chiếc khăn tắm, còn bà Ma-ri-a Đi-mi-trô-va mặc váy ngủ! Bác bảo tôi lôi mấy chiếc ghế mây ra sân thượng ngồi cho mát. Yên vị ông Tréc-van-cốp băn khoăn nói: đáng ra tôi phải đến chào đồng chí trước, theo chương trình là chiều nay, sao đồng chí lại đến bất ngờ thế này, vợ chồng tôi chưa kịp chuẩn bị gì cả. Đáp lại Bác nói: ở Việt Nam có câu:”Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, đồng chí đã từng giảng bài ở Trường Đại học Cộng sản Mat-xcơ-va, còn tôi đã từng đến nghe giảng ở đó, như vậy đồng chí là thầy của tôi, thầy đến nhà, trò phải chào thầy trước. Vả lại em gái nuôi của tôi là cô Ma-ri-a đến thì tôi phải gặp chứ. (Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ cái cảm giác lúng túng khi phải dịch câu châm ngôn “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” Bác dùng). Sau đó ba người hàn huyên thân tình với nhau; mọi sự bực tức của ông bà đã tiêu tan hẳn. Cái cử chỉ “phá cách lễ tân” có một không hai đó của Bác vừa thể hiện sự tinh tế đầy tính văn hóa Việt Nam rất con người, trọng tình, trọng nghĩa, không câu nệ lễ nghi, vừa là cách khéo léo trang trải mọi ưu phiền của khách.

Lều văn Thăng Sắc :

- Có lẽ chỉ có Bác Hồ mới có thể “phá cách” như thế ?

Anh Vũ Khoan :

- Những chuyện “phá cách” như vậy của Bác Hồ thì còn nhiều, khi nào có dịp sẽ chia sẻ tiếp nhé!


Tôi được nghe nhiều vị khách nước ngoài nhận xét rằng, sang Việt Nam luôn cảm thấy thoải mái hơn nhiều so với các nước khác. Trong nhiều nhân tố tạo nên tâm tư đó, theo tôi, có một nhân tố nói ở trên là cách đối xử theo tình người, sự thoải mái, không quá câu nệ lễ nghi. Tôi sang thăm Trung Quốc rất nhiều lần, trên các cương vị rất khác nhau và nhận thấy lễ tân Trung Quốc chu đáo đến tột cùng nhưng rất gò bó: ở Nhà khách Chính phủ là khu Điếu Ngư Đài thì đôi tay của anh không có việc gì để làm cả: ra cửa có người mở cửa, ra xe có người mở cửa xe, khăn ăn có người trải trên đùi, đi cắt tóc ngay nhà bên cạnh có người dẫn đi dẫn về, bơi thuyền có người đạp xe xung quanh hồ để rè chừng, bơi sông có lưới ở dưới…Còn ở Việt Nam thì các vị khách, kể cả Hoàng gia, đều được đối xử thân tình, thoải mái, không bị chăm sóc quá mức, và điều này rất hợp với bản tính con người muốn được tự do, thoải mái.

Theo dòng “lễ tân Hồ Chí Minh” đó, lễ tân của ta thường thể hiện tinh thần “gần dân”. Ngay trong những năm chiến tranh mỗi khi đoàn nước ngoài tới thăm đều tổ chức cho bạn đi thăm các nhà máy, hầm mỏ, trường học, ruộng đồng, tiếp xúc với những người dân bình thường. Nhiều nước khác cũng làm như vậy thôi song ở ta tôi cứ thấy đoàn với dân không quá xa cách. Tôi nhớ hồi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô A.Cô-xư-ghin lần đầu tiên sang thăm ta , Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã cùng ông đi bơi thuyền ở Hồ Tây, đi thăm HTX Yên sở, ở đó Chủ nhiệm Hợp tác xã đã biếu ông ấy con cá quả rất to để “bồi dưỡng”! (tôi đã phải cố vận dụng vốn tiếng Nga của mình để lột tả nghĩa của từ “bồi dưỡng” rất dân dã đó).

Về sau này, khi đã giữ cương vị lãnh đạo tôi luôn đề nghị lễ tân phát huy tính chất ấy. Tôi xin kể ra đây ba sự kiện.

Khi ta chủ trì Hội nghị cấp cao A-Âu (ASEM), sau Lễ khai mạc, các Trưởng đoàn sẽ phải về Trung tâm Hội nghị quốc tế ở 13 Lê Hồng Phong họp. Lúc đầu lễ tân dự kiến bố trí xe bus chở khách đi nhưng việc này rất lích kích nên tôi đã quyết định tổ chức đi bộ từ Hội trường Ba đình sang, dọc đường bố trí các cháu nữ học sinh mặc áo dài, cầm cờ hoa vẫy chào. Quả nhiên tiết mục ấy đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với cả hai phía: các đoàn và dân ta. Cũng nhân việc này mà cái vườn hoa nhỏ ở Bà Huyện Thanh quan trước đó có lều quán, nhếch nhác đã được dọn sạch sẽ cho tới ngày nay.

Khi ta chủ trì Cấp cao APEC lúc đầu cũng có ý kiến để các cơ quan, trường học nghỉ cho đỡ kẹt đường. Sau khi cân nhắc, lãnh đạo ta đã quyết định cứ để mọi sinh hoạt diễn ra bình thường. Tôi đã góp phần vào quyết định này vì nhớ tới Cấp cao Thượng Hải 2001 bạn đã cho dân trong các khu phố liên quan tới Hội nghị nghỉ việc và đi nghỉ xa dài ngày do đó đi xe giữa một thành phố hiện đại nhưng có cảm giác rất lạnh lẽo, cứ như là đi trong một thành phố vừa bị dội bom nơ-trôn! Quả nhiên việc các đoàn xe phóng trên đường phố Hà nội giữa lòng người dân vẫn sinh hoạt bình thường, vui vẻ vẫy chào khách đã gây ấn tượng rất tốt với các vị khách vốn bị cô lập ngay cả ở nước mình. Cái cảnh Thủ tướng Ô-xtrây-lia chạy tập thể dục quanh Hồ Hoàn Kiếm giữa dòng người dân tập thể dục buổi sáng là một cảnh rất Việt Nam.

Theo chương trình đón Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm-đào sang thăm chính thức nước ta, sau lễ đón bên Phủ Chủ tịch sẽ hội đàm bên Trụ sở Trung ương Đảng phía đối diện, cũng trên đường Hùng Vương. Ta đã bố trí cho lãnh đạo hai bên đi bộ sang, dọc đường đông đảo nhân dân cầm cờ hoa vẫy chào, tạo nên không khí rất gần gũi giữa lãnh đạo và người dân. Về sau này các bạn Trung Quốc mỗi khi gập tôi đều ca tụng “sáng kiến” đó.

Lều văn Thăng Sắc :

- Sợ rằng làm lễ tân “gần dân” như thế rất dễ xẩy ra sơ xuất ?

Anh Vũ Khoan :

- Tất nhiên, việc phát huy phong cách “lễ tân gần dân” là điều rất tốt song cũng phải lo sao cho chu đáo, không sơ xuất điều gì. Việc này không dễ chút nào nếu tính rằng, nhiều người dân chưa tôn trọng trật tự đường phố và giao thông, kể cả vệ sinh công cộng, có khi tiểu tiện tùy tiện. Tôi cứ nhớ mãi khi mới từ Liên Xô về Bộ năm 1956, trong một cuộc họp chuẩn bị đón đoàn nước ngoài tới thăm nước ta, ông Vụ trưởng Lễ tân BNG lúc bấy giờ đã phải nhắc lãnh đạo Hà nội chú ý tình trạng đái bậy! Về sau, khi giữ các cương vị lãnh đạo tôi cũng phải luôn nhắc nhở các ngành, các cấp chú ý chuyện này.

Lều văn Thăng Sắc :

- Thưa anh, ngoài yêu cầu gần dân, lễ tân ngoại giao còn những yêu cầu nào khác ?

Anh Vũ Khoan :

Một yêu cầu nữa của công tác lễ tân là “giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”. Điều này thường được thể hiện trong 4 việc: ăn, mặc, giải trí và quà tặng.

Theo yêu cầu đó, khi thết khách nhất thiết cố đãi đằng một vài món ăn dân tộc để quảng bá văn hóa ẩm thực của dân tộc mình song cũng không nên quá lạm dụng vì cần tính đến cả khẩu vị của khách. Tôi nhớ có lần chiêu đãi ông Đại sứ Xô-ma-li ở Mát-xcơ-va nhân dịp hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, ĐSQ ta cũng thết món “đầu vị” là nem Sài gòn nhưng thấy ông ta cứ ngồi, không chịu ăn. Hóa ra ông theo đạo Hồi nên không thể ăn nem nhân thịt lợn được! Phát hiện ra điều đó, ta phải thết ông ta trứng rán vậy. Để tránh mọi trục trặc, tốt nhất là chủ động hỏi trước xem khách kiêng món gì để tránh.

Một quy luật bất biến là nhất thiết không được thết những món quá “độc” như món “mộc tồn” chẳng hạn. Trên thế giới có lẽ chỉ có dân ta, dân Triều tiên (cả Bắc lẫn Nam) và một bộ phận dân Quảng Đông Trung quốc là khoái món này. Có người “tinh nghịch” ngầm thết khách ăn món thịt chó để “thử”; khi cảm nhận thấy mùi vị lạ, nhất là khi lộ tẩy thì người ta nôn ọe, oán thoán thì thật tệ hại!

Một yêu cầu thết khách nữa là chủ phải nắm được đặc điểm của món ăn đãi khách để có thể giới thiệu được thì mới có tác dụng quảng bá. Ơ Trung Quốc món nào cũng có “lai lịch” rất lý thú, nhờ vậy chủ có đề tài để giới thiệu và làm đầu câu chuyện. Ví dụ món cơm rang Triều châu xuất phát từ câu chuyện Vua Càn Long vi hành xuống Quảng đông; chiều muộn đói bụng vào một quán bên đường nhưng chủ quán cho biết hết cả thức ăn rồi; nhà Vua bèn yêu cầu vét hết mọi thứ còn lại rang lên ăn. Chủ quán đã chiều theo khách, vét hết cơm nguội và ít thức ăn còn lại rang lên và nhà Vua ăn thấy rất ngon miệng, đặt tên là cơm rang Triều châu! Tiếc rằng ở ta hình như không có truyền thống này.

Các nước còn có quốc tửu, thế nhưng ta lại chưa có, cho dù “quốc lủi” rất ngon, hoàn toàn có thể biến thành quốc tửu, còn rượu vang là đặc sản của phương Tây nên có lẽ chẳng dùng vang Đà lạt làm quốc tửu được.

Đó là chuyện thết khách, trong ngoại giao còn chuyện mình nên ăn uống thế nào nữa. Ơ ta có câu: “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, câu này hoàn toàn có thể trở thành phương châm của ngoại giao. Ơ trong rừng ra, từ đồng ruộng lên, mình có biết cách ăn, cách uống lịch lãm theo kiểu ngoại giao, dùng dao dĩa ra sao đâu? Vậy lúc đầu chưa quen, tốt nhất là đừng áp dụng phương châm “ăn đi trước” mà hãy áp dụng câu châm ngôn trên: để ý xem người ta ăn, người ta uống thế nào rồi bắt chước làm theo thì khỏi bị hố. Đây cũng là điều Bác Hồ dậy cán bộ ngoại giao khi Bác đến thăm Bộ.

Cá nhân tôi có 2 chuyện nhớ đời về phương diện này. Năm 1951 chúng tôi được đưa sang Trung Quốc học. Vừa ở trong rừng Việt Bắc sang Nam ninh, tối hôm đó được đưa vào một hiệu Cao lâu đèn nê-ông sáng lòa, bàn trải khăn trắng phau. Người ta bầy lên bàn la liệt thức ăn, trong đó có món đậu phụ nhự (có khi ta gọi là chao) vốn là một đặc sản của Quảng Tây. Tôi gắp cả miếng cho vào miệng thì cay ơi là cay, như ngậm hòn than nóng vào miệng nhưng nuốt không trôi, nhả ra không đặng nên đành chiêu một ngụm nước rồi nuốt chửng. Còn một lần khác, nhân Hội nghị quốc tế 81 Đảng cộng sản và công nhân ở Mát-xcơ-va năm 1961 tôi được huy động vào phục vụ Đoàn Đảng ta do Bác Hồ dẫn đầu. Mỗi bữa ăn bạn bầy trên bàn đủ sơn hào hải vị và tôi cứ hồn nhiên gắp ăn. Thấy vậy Bác Hồ nhắc: cháu ăn món nào thì ăn hết đĩa đó đi chứ mỗi đĩa gắp một chút thừa ra ai ăn? Từ đó trở đi tôi cứ nhắm món mình ưa thích giã cho hết rồi “chuyển làn” sang món khác.

Trong ngoại giao uống cũng phải rất chừng mực, không thể “dzô,dzô” hay “100%” được vì sẽ mất tư thế, thậm chí có thể để xẩy ra sơ xuất ngoại giao. Hồi mới ra làm việc tại ĐSQ nước ta ở Mát-xcơ-va, một lần ĐSQ Mông Cổ tổ chức liên hoan giữa 4 ĐSQ XHCN ở châu A là Việt Nam, Trung Quốc, Triều tiên và Mông Cổ. Một anh cán bộ ĐSQ ta ngà ngà say rồi ngủ gà ngủ gật, tay cầm cốc rượu cứ thế rót vào…đùi bà Mông cổ ngồi bên cạnh! Giữ ý, bà ta cứ ngồi yên cho tới khi chén rượu cạn mới nhẹ nhàng đứng lên ra ngoài. Bà ấy ứng xử đúng là ngoại giao.

Về mặc thì cho tới nay ta cũng chưa định hình được quốc phục trong khi tất cả các nước trong ASEAN và nhiều nước khác đã có. Hồi anh Sáu Dân làm Thủ tướng cũng đã nêu vấn đề này, thậm chí đã cho thiết kế và trưng bầy nội bộ song không thành vì lắm ý kiến quá. Có thời Bộ Ngoại giao đã phải sáng chế ra “quốc phục” cho các đại sứ ta trình quốc thư: đó là chiếc áo hao hao như áo Tôn Trung Sơn của Trung quốc (tức áo cổ cao, cài kín) do đó báo chí phương Tây đã bình luận rằng, ngay cả ăn mặc ta cũng chịu ảnh hưởng của Trung Quốc. Sau ta đã phải bỏ kiểu “quốc phục” này, khi cần thì đi thuê áo đuôi tôm (smoking) vậy. Năm 2007, khi tôi sang Nhật nhận Huân chương “Mặt trời mọc” của Nhật hoàng, ĐSQ nước ta cũng đã phải thuê cho tôi một bộ như vậy.

Nước chủ nhà thường tổ chức các buổi biểu diễn văn nghệ để giới thiệu văn hóa nước mình, đồng thời để tỏ lòng mến khách đôi khi điểm vài tiết mục hát múa dân tộc của nước đoàn đến thăm. Vấn đề là nội dung, chất lượng và liều lượng làm sao cho thích hợp. Đương nhiên những tiết mục “đinh” phải mang đậm bản sắc dân tộc song chẳng nên tham trình diễn những tiết mục dài lê thê, khó hiểu, làm cho khách mỏi mệt mà nên xen lẫn những tiết mục hiện đại, sôi động. Còn những tiết mục cốt để “khoe” rằng ta cũng hiểu biết nền văn hóa của khách thì cũng chẳng nên lạm dụng vì làm sao ta có thể trình diễn hay hơn nghệ sỹ của họ được? Về thời lượng buổi biểu diễn thì không nên tham lam, quá kéo dài. Sở dĩ đề cập chuyện này vì tôi đã từng vấp phải những thiên hướng như vậy mỗi khi xét duyệt các chương trình nghệ thuật. Tôi nhớ mãi Cấp cao ASEM-5: anh em Bộ Văn hóa đã chuẩn bị tiết mục các em thiếu nhi múa hát trước mặt các vị trưởng đoàn ngồi trên Đoàn Chủ tịch. Thấy cảnh các cháu mồ hôi nhễ nhại, son phấn chảy ròng ròng, các tiết mục cũng không có gì là “ đặc sắc dân tộc” cả nên tôi đã đề nghị bố trí một dàn kéo violon ăn mặc lịch sự, biểu diễn một bài nhạc Việt Nam, một bài kinh điển của Betthoven vừa nhẹ nhàng, vừa lịch lãm, vừa thể hiện sự giao thoa văn hóa Đông-Tây đúng với tinh thần A-Âu.

Quà tặng trong ngoại giao cũng phải mang sắc thái dân tộc, đồng thời phải bảo đảm chất lượng cao. Mặt khác khi tặng quà cần nắm được truyền thống và luật lệ của mỗi nước. Một thời ta hay tặng đồ sơn mài, nhiều khi là hàng chợ; chất lượng nghệ thuật rất thấp đã dành, chất lượng về mặt kỹ thuật vô cùng tồi. Một lần tôi gập Thượng nghị sỹ Mỹ thuộc Đảng Cộng hòa M’Caine (từng bị ta bắn rơi ở hồ Trúc bạch, sau được bầu làm TNS, có lúc đã ra tranh cử Tổng thống Hoa kỳ); khi chia tay, ông đề nghị tôi nán lại một chút rồi đi vào phòng bên lấy ra một bức tranh sơn mài Việt Nam đã cong vênh rồi nói: các bạn nên chú ý chất lượng quà tặng, tôi hiểu Việt Nam thì không sao, nếu là người khác thì không hay! Thật tình tôi ngượng chín cả mặt, chỉ còn biết hứa sẽ để ý việc này. Luật lệ ở một số nước rất ngặt nghèo trong việc nhận quà biếu của nước ngoài. Khi đi tiền trạm cho anh Sáu Dân sang thăm Singapore để bình thường hóa quan hệ vào năm 1991, lễ tân của bạn dặn tôi rằng, các ông đừng mang theo tặng phẩm vì sau khi nhận chúng tôi phải làm thủ tục nộp hết cho Bộ Tài chính, muốn giữ lại thì phải bỏ tiền ra mua nên rất phiền toái! Đối với những nước như vậy thì cùng lắm chỉ nên tặng quyển sách tranh phong cảnh hay tranh nghệ thuật nước ta là đủ, còn đối với những nước phương Đông như Trung Quốc, Nhật hay Hàn Quốc thì lại nên có quà, chủ yếu là những đồ thủ công mỹ nghệ đẹp bền, còn đối với các nước theo đạo Hồi thì chớ tặng tranh vẽ người, động vật.

Nói chung, trong lễ tân ngoại giao, để bảo đảm cho mọi việc trôi chẩy có lẽ cần tuân thủ hai phương châm cơ bản; một là, phải có kế hoạch rất tỷ mỉ và phải kiểm tra kỹ lưỡng từng ly từng tí một, xểnh ra là “sai một ly đi một dặm”, có thể để lại những hệ quả khôn lường; hai là, cố dự liệu nhiều phương án khác nhau, kể cả tình huống xấu nhất, bất ngờ nhất để có sẵn phương án xử lý.

Nếu kể ra những chuyện cười ra nước mắt về lễ tân mà tôi đã gập phải trong đời để rút ra những phương châm ngắn gọn nói trên có lẽ phải mất hàng trăm, hàng nghìn trang giấy. Để xả hơi, tôi xin kể ra đôi ba chuyện.

Năm 1956 ở Hung-ga-ri nổ ra cuộc nổi loạn "phản cách mạng". Với sự trợ giúp của Liên Xô, một chính quyền mới được thành lập bao gồm chủ yếu là các nhà lão thành cách mạng đã từng tham gia cuộc Cách mạng năm 1918 ngay sau Cách mạng tháng Mười Nga. Sau khi tình hình tạm ổn, một đoàn đại biểu cấp cao của chính quyền mới do Thủ tướng Ferenc Munich dẫn đầu đi thăm các nước bạn bè để cảm ơn, trong đó có nước ta. Lúc đó ở ta chưa có phiên dịch tiếng Hung nên phải dùng phiên dịch tiếng Nga và tôi được cử đi phục vụ đoàn. Đoàn xuống thăm Hải phòng rồi ra Quảng ninh; cùng đi có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Lãnh đạo Hải phòng đã mở tiệc chiêu đãi đoàn và đương nhiên có món hải sản là cá hấp maionese. Chính món này là tác nhân làm cho cả đoàn bị...tháo tỏng, trừ ông trưởng đoàn thoát nạn vì ông không ăn cá. Tới Quảng ninh, tình hình nghiêm trọng đến nỗi không còn đủ chỗ để đi ngoài (lúc ấy Khách sạn Hạ long chỉ có nhà xí công cộng ở đầu hồi), đành phải đặt ngửa chiếc bàn ping-pông rồi đổ tro lên để mọi người chổng mông ngồi xung quanh xả ra. Từ đó tôi rút ra kinh nghiệm là không bao giờ nên mời khách ăn những món "đặc sản", nhất là hải sản lại để trong tủ lạnh.

Năm 1973 tôi theo Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh qua Mát-xcơ-va sang Paris dự lễ ký kết Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Khi ra sân bay Vnukovo ở Mat-xcơ-va, chúng tôi ngồi mãi trên máy bay nhưng không thấy cất cánh mà bên sân bay Orly sẽ có rất nhiều quan chức, phóng viên, bà con Việt Kiều...tập hợp để đón đoàn; sang chậm có thể gây ra những sự đồn đoán bất lợi. Ông Trinh bảo tôi xuống máy bay xem có chuyện gì trục trặc; khi tôi xuống thì các ông lãnh đạo ĐSQ cứ lảng đi, một mực không muốn nói chuyện với tôi. Phải gặng hỏi mãi mới biết anh cán bộ lãnh sự của ĐSQ đi lấy hộ chiếu tại ĐSQ Pháp tới nay vẫn chưa thấy ra sân bay và không biết làm cách nào liên lạc được (lúc đó chưa có điện thoại di động). Tôi lên máy bay báo cáo ông Trinh về ngọn nguồn. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy "giận tím mặt" là thế nào! Thứ trưởng Ngoại giao Liên Xô Firubin trực tiếp gọi điện thoại hỏi Đại sứ Pháp thì được trả lời rằng, đã cấp visa từ sáng sớm rồi; còn ông Phó Ban thứ nhất Ban Đối ngoại TW Đảng Rakhmanin chỉ thị cho công an kiểm tra xem có xe ngoại giao nào mang số 84 là số của ĐSQ Việt Nam bị nạn không thì được trả lời là không. Ông Rakhmanin phải lên máy bay nói chuyện trên trời dưới đất với ông Trinh để ông ấy đỡ sôi me. Hàng tiếng sau mới thấy anh cán bộ lãnh sự ĐSQ hớt hải chạy ra đưa vội hộ chiếu cho đoàn. Hóa ra anh ta đi nhầm sân bay, thay vì ra sân bay Vnukovo thì anh ta đã ra sân bay quốc tế Sheremetievo cách đó hơn 100 km mà đường mùa Đông đầy tuyết phải mất hàng tiếng đồng hồ mới sửa được sự nhầm lẫn tai hại của mình! Câu chuyện tầy đình này càng cho thấy bao giờ cũng phải nắm rất rõ địa chỉ nơi mình đến.

Trong lần đi dự Hội nghị quốc tế thông qua Định ước để bảo đảm cho Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam tôi lại gập trục trặc với ĐSQ ta ở Mát-xcơ-va. Số là lúc đó sắp đến Tết ta, ông Trinh yêu cầu mang theo 5 cành đào để tặng cho 2 Đoàn cũng như cơ quan đại diện ngoại giao miền Bắc và miền Nam, bà con Việt Kiều ở Paris. Đích thân tôi mang những cành đào đó lên máy bay ở Hà-nội nhưng đến Paris chỉ còn 3 cành! Vậy đi đâu mất 2 cành, chẳng nhẽ rơi ra ngoài trời à? Tôi bèn đánh telex sang Mát-xcơ-va hỏi; quả nhiên ĐSQ ở đó đã tự ý lấy 2 cành cho 2 cơ quan đại diẹn ở Liên Xô mà không hề báo cáo Đoàn. Lại nữa, sang tới nơi thấy mất va-li của một đồng chí đại tá của ta sẽ từ Paris vào Sài gòn để tham gia Ban liên hiệp đình chiến. Hỏi ra mới biết ĐSQ ta ở Mát-xcơ-va đã lấy nhầm va-li của anh ta vì nghĩ rằng đó là hành lý của một anh cùng tên đi nhờ máy bay! Để kịp cho đồng chí đại tá rời Paris đành phải mua quần áo mới.

Năm 1991 sau khi Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm và tôi sang thăm Trung Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quôc Tiền Kỳ-tham sang đáp lễ. Đây là chuyến thăm đầu tiên của Ngoại trưởng Trung Quốc sang ta. Đương nhiên ta rất coi trọng chuyến thăm, vả lại quan hệ Việt-Trung còn đang trong quá trình bình thướng hoá trở lại sau hơn một chục năm sóng gió, do đó ta càng chuẩn bị chu đáo. Dè đâu đang hội đàm thì điện tắt phụt, Nhà khách 12 Ngô Quyền lại không chuẩn bị sẵn máy nổ nên phải dừng hội đàm mất một lúc khá lâu, chúng tôi tái cả người, không biết bạn có hiểu lầm không? Sau đận đó đành phải cách chức anh chàng phụ trách Nhà khách.

Những chuyện như vậy thì không sao có thể lường trước được; bí quyết chỉ là phải hết sức tỷ mỷ, kiểm tra đi kiểm tra lại nhiều lần đối với mọi việc, dù là nhỏ nhất, cố hình dung và dự tính các tình huống khác nhau trong khả năng có thể; nếu xẩy ra những tình huống bất ngờ thì nhanh trí xoay xở mà thôi.

Đó là những chuyện sơ xuất của ta, còn phía bạn cũng có khi sơ xuất. Đã từng xẩy ra trường hợp bạn cử quốc ca của chính quyền Sài gòn đón đoàn miền Nam của ta chỉ vì ở xa, không có thông tin, ta lại chưa có cơ quan đại diện tại chỗ, không có đoàn tiền trạm sang. Những nghi thức lễ tân có khi phản ánh thái độ chính trị nhưng có khi chỉ là sơ xuất kỹ thuật, vô tình hay do thông lệ của bạn khác của ta, ta chẳng nên quá câu nệ ảnh hưởng đến quan hệ ở tầm quốc gia. Trên thực tế đã từng xẩy ra sự căng thẳng chỉ vì nghi thức lễ tân không khớp nhau do mỗi nước có luật lệ và tình huống khác nhau.

Có lẽ Bộ Ngoại giao ta nên tổ chức cho anh chị em trong ngành, nhất là các đồng chí đã nghỉ hưu viết lại những mẩu chuyện “cười ra nước mắt” ấy không chỉ để cười vui mà chủ yếu để các thế hệ hiện nay và mai sau rút kinh nghiệm.

Lều văn Thăng Sắc :

- Cám ơn anh Vũ Khoan đã “bật mí” nhiều “bí kíp” của công tác lễ tân ngoại giao. Để những kinh nghiệm quý báu không bị “thất truyển” như lời của một bạn đọc, trong khi chờ Bộ Ngoại giao tổ chức như gợi ý của anh Vũ Khoan, Lều văn Thăng Sắc rất mong nhận được những chia sẻ “tự phát” của các anh các chị đã từng làm lễ tân, kể cả những câu chuyện “cười ra nước mắt” để mọi người có dịp vừa cười vừa học.

Trò chuyện với ông Vũ Khoan (Phần I)

Trò chuyện với ông Vũ Khoan - Phần I



Lều văn Thăng Sắc mới có cái may mắn được chuyện trò với anh Vũ Khoan. Những câu chuyện của anh thật cởi mở, là chuyện kể của một người anh hơn là của một người đã từng giữ nhiều trọng trách trong Lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Những câu chuyện anh kể không chỉ gợi lại kỷ niệm của một thời làm Ngoại giao mà còn là sự chia sẻ những kinh nghiệm nghề nghiệp quý báu. Ở những câu chuyện anh Vũ Khoan kể, người ta thấy ngồn ngộn những chiêm nghiệm cuộc sống để từ đó có thể rút ra bao nhiêu là suy ngẫm và bài học. Vẫn bằng lối nói giàu hình ảnh, giản dị và khúc chiết vốn có thỉnh thoảng lại pha chút hóm hỉnh tới mức rất “chua”, vẫn bằng lối nói vo mà không cần giấy tờ dàn ý, bởi vì vẫn như mọi khi, nội dung ý tứ đã ở sẵn trong đầu anh hết rồi, anh Vũ Khoan đã bắt đầu câu chuyện bằng những chia sẻ về nghề “thông ngôn” và hứa sẽ lần lượt nói về các công việc khác của nghề Ngoại giao, như là lễ tân, lãnh sự, nghiên cứu, đàm phán…
Được anh Anh đồng ý, Lều văn Thăng Sắc xin giới thiệu lại những cuộc chuyện trò với anh Vũ Khoan.

I- NGHỀ “THÔNG NGÔN”.

Lều văn Thăng Sắc :

- Thưa anh, trước khi anh giữ những trọng trách trong Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại và sau này là Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, anh đã là một người lính lăn lộn trong nghề ngoại giao, bắt đầu từ nghề phiên dịch mà anh gọi đùa là nghề “thông ngôn”. Vậy anh đã có bao nhiêu năm trong nghề này ?

Anh Vũ Khoan :

- Mình lăn lộn trong ngành ngoại giao trong 45 năm trời, từ năm 1955 đến năm 2000; nếu kể cả thời gian sang Bộ Thương mại (một phần cũng làm ngoại giao kinh tế) và tham gia lãnh đạo Đảng, Nhà nước cũng được phân công phụ trách công tác đối ngoại thì trọn cả đời làm ngoại giao. Riêng cái nghề thông ngôn thì đến năm 1982 mới có thể coi là hết “cái kiếp” phiên dịch. Qua 4 lần công tác ở ĐSQ nước ta ở Liên Xô minh chuyên dịch cho các ông Đại sứ; ở Bộ thì ngồi ở Phòng Phiên dịch, đi dịch cho lãnh đạo Bộ và các vụ, phục vụ các đoàn, lúc đầu dịch cho tùy tùng, kể cả các ông đầu bếp của các đoàn, sau dịch cho các đoàn viên rồi mới tới dịch cho các vị lãnh đạo. Mình đã vinh dự có những lần được dịch cho Bác Hồ, còn dịch cho các ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp…thì nhiều.

Thời bọn mình cái nghề này nó bạc bẽo lắm, chịu làm và theo được cái nghề này rất khó. Dưới thời Pháp thuộc, người ta gọi phiên dịch là ông thông, chuyên bám gót ông Tây bà đầm, do đó người dân coi là tay sai của thực dân và rất khinh rẻ. Dưới chế độ ta, tuy người ta không còn nghĩ như vậy song thực ra cũng chẳng coi trọng lắm, có người còn cho là nghề này có khó gì đâu, người ta nói sao cứ dịch ra làm vậy là được, phiên dịch chỉ ăn theo nói leo, nhiều khi chỗ ăn chẳng có, chỗ ở cũng không, khi khách ăn mình phải dịch, giờ nghỉ có khi ngồi ngoài gốc cây, bờ biển, đường thăng tiến chẳng có!

Nói vậy chứ mình quan niệm cái nghề này rất quan trọng, thực sự phiên dịch là cầu nối với các nước khác. Nếu cái cầu ấy ọp ẹp, bấp bênh, ván lát rơi ra thì quan hệ quốc tế có thể “thụt chân” chứ chẳng chơi. Cái cầu ấy mà vững chắc, qua lại thông thoáng thì sự giao lưu giữa các dân tộc tốt đẹp hơn. Đấy là đối với xã hội.
Còn đối với bản thân, cái nghề này cũng rất hay. Một là, anh có được một công cụ rất quan trọng để tiếp cận với văn hóa, với nền văn minh của các dân tộc khác. Hai là, anh có điều kiện tiếp xúc với rất nhiều giới khác nhau, tiếp cận với rất nhiều vấn đề khác nhau. Người ta chuyện trò với nhau có cố định về một vấn đề nào đâu; có thể là chuyện kinh tế, chuyện chính trị, chuyện đời thường…Ba là, anh có dịp đi thăm nhiều nơi, nhiều nước, mở rộng tầm nhìn; có dịp tiếp xúc với nhiêu VIP theo cách nói bây giờ. Bản thân mình đã có dịp phục vụ và quen biết với tất cả các nhà lãnh đạo đất nước thuộc “thế hệ lập quốc” và học hỏi được nhiều điều. Có thể nói không ngoa rằng, sở dĩ mình tiến bộ được một phần quan trọng là do điều này. Mình được gập mặt, “bắt tay” với nhiều nhân vật như tất cả các Tổng Bí thư ĐCS Liên xô từ Khut-sôp cho tới Brê-giơ-nép, An-đrô-pốp, Tréc-nhen-cô, Góoc-ba-chốp; tuy không dịch tiếng Trung nhưng do đi theo các đoàn cấp cao nên đã từng gặp mặt Mao Trạch-đông, Lưu thiếu-kỳ, Chu Dức, Chu Ân-lai…và cả “bè lũ bốn tên” nữa! Rối Kim Nhật Thành, Fidel, Che, Raoul của Cuba, các nhà lãnh đạo Đông Âu và phong trào cộng sản công nhân quốc tế…
Muốn làm được việc đó thì đầu tiên là phải học cái đã.

Lều văn Thăng Sắc :

- Xin anh chia sẻ với mọi người về cái cách mà anh đã học ?

Anh Vũ Khoan :

- Thời bọn mình chưa có khái niệm đào tạo phiên dịch chuyên nghiệp, chỉ dậy ngoại ngữ mà thôi. Cá nhân mình cũng không học chuyên về phiên dịch mà chỉ học tiếng Nga. Năm 1954 khi bọn mình đang học ở Khu học xá Nam Ninh thì bỗng có lệnh lấy 100 người sang học tiếng Nga bên Liên Xô để chuẩn bị làm việc với chuyên gia Liên Xô sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc.

Lúc bấy giờ chưa có sách giáo khoa, chưa có từ điển. Các bà giáo dắt tay bọn mình đi khắp lớp học kiêm luôn ký túc xá, truyền miệng cho bọn mình: đây là cái trần này, đây là cái cửa này, đây là cái bàn, đây là cái ghế này, đây là cái sàn này….Mọi người cứ học theo cách truyền miệng như thế. Đến khi những vật dụng cụ thể đã học hết rồi, phải học các khái niệm khác ở trường không có, nhất là các khái niệm trìu tượng thì làm thế nào ? Các bà giáo đã áp dụng hai cách : một là làm hiệu bằng tay; hai là mang đến những quyển sách tranh của trẻ con, chỉ cho bọn mình: đây là con chó, đây là con mèo, đây là con bò, con voi, con ngựa…. Trong bọn mình có một số anh chị em biết chút ít tiếng Trung quốc, tiếng Pháp nên được trao nhiệm vụ tra từ điển để tìm ra những khái niệm trìu tượng. Đúng là bọn mình đã trải qua quá trình “vỡ lòng” đúng theo nghĩa của từ đó.

Muốn làm phiên dịch thì trước hết phải có vốn từ ngữ càng phong phú càng hay; nếu không chịu khó nghiền từ thì chả làm sao dịch được. Lúc bấy giờ bọn mình chịu khó lắm, có những bạn một ngày nghiền hơn một trăm từ, có khi một trăm hai mươi-ba mươi từ một ngày.

Nhân đây mình kể chuyện Cụ Hồ học ngoại ngữ. Sau này, có một lần mình lên Phủ Chủ tịch dịch cho Bác Hồ gặp phóng viên báo Nô-voe Vre-me, tức là báo Thời đại mới của Liên Xô. Trong lúc chờ phóng viên đến mình thấy Cụ rút thuốc lá ra hút. Cùng với thuốc lá Cụ rút ra một mẩu giấy rồi lẩm nhẩm đọc. Tất nhiên mình không dám hỏi đó là cái gì nhưng nghe kỹ thì thấy Cụ nhẩm tiếng Nga nên mình mạnh dạn hỏi :”Thế Bác vẫn học tiếng Nga à ?”. Bác nói :”Bác vẫn phải học chứ, tiếng Nga Bác quên nhiều rồi. Bác ghi vào mảnh giấy này 20 từ, một ngày Bác hút 20 điếu, mở hộp ra 20 lần, mỗi lần lẩm nhẩm như thế có rơi vãi cũng còn được 10 từ”. Khiếp thật! Ông Cụ đã cao tuổi lại đã biết gần một chục tiếng nước ngoài, ở cương vị cụ lúc nào cần đều có phiên dịch thế mà cụ vẫn chịu khó học như vây! Bây giờ người ta nói học tập và làm theo gương Bác Hồ, nhưng mình nghĩ cả nước 85 triệu người liệu có ai học Cụ Hồ cách học ngoại ngữ này không. Như vậy rõ ràng là từ vựng phải học đầu tiên.

Bọn mình học ở trường như thế, đến khi ra Sứ quán cũng không có ai dậy. Mình theo gương ông Nguyễn Thương, lúc bấy giờ là Bí thư thứ ba của Sứ quán, tuy đã từng tốt nghiệp Trường Luật (luật hẳn hoi chứ không phải các vị có bằng luật bây giờ đâu), rất giỏi tiếng Pháp nhưng tiếng Nga ông ấy còn phải học theo cách dùng một quyển sách tra tự điển từ đầu chí cuối rồi học theo. Theo gương ông , mình lấy quyển Chính trị kinh tế học tiếng Nga ra, vừa đọc vừa tra chữ, từ trang đầu đến trang cuối, mỗi ngày lai rai một ít, cứ thế mà học thêm từ đồng thời học luôn cả về chính trị kinh tế học. Còn một cách học từ nữa là dịch các bài báo để làm bản tin của Sứ quán. Lúc đầu bà thư ký người Nga chữa cho đỏ lòm, không còn chữ nào là của mình. Cứ chịu khó như thế rồi những chữ chữa đỏ cũng giảm dần đi. Như vậy, việc đầu tiên là học từ vựng, nếu không có cái vốn từ đó thì không thể nào làm phiên dịch tốt được.

Việc thứ hai là học cái hồn của thứ tiếng mình học, cụ thể đối với bọn mình là tiếng Nga. Đâu có thể chỉ học từ vựng và ngữ pháp rồi chắp với nhau thì thành văn như người Nga nói và viết được? Vấn đề là cái hồn ngôn ngữ; vẫn những chữ, những quy tắc văn phạm ấy nhưng phải nắm bắt được cách người Nga nói và viết, nếu không sẽ là tiếng Nga “giả cầy” hay tiếng Việt chuyển ngữ sang tiếng Nga. Muốn thấm được cái hồn ngôn ngư thì chỉ có cách là đọc, mà đọc thì phải đọc tiểu thuyết của người ta, ví dụ như đọc văn thơ Pu-sơ-kin, Tôn-xtôi, Tuốc-ghê-nhép, Léc-măng-tốp…, cũng như các nhà văn hiện đại như là Pau-tôp-xki, Gorki…Phải đọc rất nhiều, để cái hồn văn Nga nó thấm vào người anh, có như thế sau nói mới chuẩn. Để nâng cao khả năng cần cố gắng học nghĩ bằng tiếng Nga chứ đừng nghĩ bằng tiếng Việt rồi chuyển ngữ sang tiếng Nga.

Đấy là việc thứ hai, tức là phải thấm cái hồn văn, cái văn hóa của cái ngữ đó vào người anh. Cái thứ ba là phải học nghe, học nói. Nói thì dễ, có bao nhiêu từ thì anh nói bấy nhiêu, nhưng nghe người ta nói mới gay vì người ta có nể anh đâu. Cần gì người ta cứ nói chứ mắc gì đến mình. Vậy mình học theo hai cách. Một là la cà nói chuyện. Lúc đó trong Sứ quán có bà thư ký, ông lái xe, ông quét sân, bà liên lạc…Qua nói chuyện với người ta mình vừa tập nghe, vừa tập nói. Muốn thạo chỉ có cách là “nói bừa”, đừng ngượng, nói dở tiếng nước ngoài có hề hấn gì đâu? Còn một cách nghe khác nữa: lúc bấy giờ ở Nga ra-đi-ô cũng vẫn chưa phổ biến đâu, cả Sứ quán có một cái đài, ti vi cũng chỉ có một cái nhỏ téo, màn hình chỉ bằng quyển vở thôi.

Lều văn Thăng Sắc :

- Anh còn nhớ đó là cái ti-vi hiệu gì không ?

Anh Vũ Khoan :

- Nhãn hiệu cái ti vi ấy là Lê-nin-grat, cái màn hình bé tí, chỉ bằng quyển vở học trò thôi, nhỏ tí ấy mà, nhưng cái thùng lại rất to. Anh chị em trong SQ nhiều người không biết tiếng Nga, bọn mình biết tiếng phải đóng vai trò dịch TV, dịch phim; điều đó cũng giúp nâng cao trình độ dịch tuy lúc ấy cũng chỉ dịch sơ sơ được thôi, nhiều khi còn phải “bịa” ra là đằng khác!

Lúc bấy giờ phổ biến ở Nga là cái loa truyền thanh thành phố. Mình nằm trên giường, nghe rồi dịch đuổi theo. Những đoạn tin thì dễ nghe, mình làm chính trị nên nghe cái đó là chính. Lúc đầu có hiểu gì đâu, sau rồi vỡ dần, vỡ dần ra. Làm phiên dịch ở Sứ quán lúc bấy giờ sợ nhất là nghe điện thoại, nhỡ người ta nói mình không hiểu hoặc hiểu sai thì chết. Mà qua điện thoại đâu có hỏi đi hỏi lại được? Cái sợ nữa là dịch khám bệnh, nhất là cho phụ nữ. Trẻ măng lại học bập bõm như vậy nên nhiều từ y có biết đâu. Có lần dịch cho một chị ( mình phải quay mặt vào tường!?), bác sỹ hỏi về kinh nguyệt có đều không, mình chẳng hiểu gì về chuyện đó nên đành chịu cứng, làm cho bà bác sỹ Nga nổi đóa lên.

Lều văn Thăng Sắc :

- Bây giờ ở một số Sứ quán của ta vẫn còn có cán bộ sợ nghe điện thoại đấy.

Anh Vũ Khoan :

- Sợ lắm, tại vì người nói điện thoại không biết mình là ai, không chiếu cố gì đến mình cả, người ta cứ nói bình thường. Bình thường của người ta nhưng đối với mình là rất khó. Nếu anh nghe nhầm, người ta hẹn ở chỗ này anh lại báo cáo chỗ khác thì chết dở. Do đó cái nghe cũng quan trọng lắm.

Như vậy, mình đã nói là phải học từ vựng, học nói, học viết, học nghe. Giờ nói dịch xuôi. Xưa, lúc mới về Phòng phiên dịch cũng còn ít việc, mình lấy quyển Lịch sử quan hệ quốc tế ra dịch từ A đến Z, sau này ở trường dậy theo quyển đó. Qua đấy mình biết thêm về quan hệ quốc tế. Như vậy muốn làm phiên dịch tốt thì khâu đầu tiên là phải học tốt nhiều cái. Đấy là mình chưa nói phải học lịch sử, học văn hóa của đất nước người ta và cả ngôn ngữ, văn hóa nước mình nữa chứ. Anh giỏi tiếng nước ngoài nhưng không thạo tiếng nước mình thì dịch làm sao được? Kiến thức của phiên dịch là không có biên giới, người đối thoại mà anh phục vụ nói nhiều vấn đề có giới hạn gì đâu, nếu anh không biết thì làm sao dịch nổi.
Nói tóm lại, muốn làm phien dịch tốt chí ít phải có hai điều kiện: có năng khiếu ngoại ngữ và phải chịu khó học. Thế hệ bọn mình không được học đến nơi dến chốn nên phải mầy mò theo cách trên; thế hệ ngày nay có điều kiện học hành tử tế nhưng có lẽ những “thủ thuật” nói trên cũng hữu ích. Bản thân mình về sau này tự học tiếng Anh cũng vận dụng một số kinh nghiêm khi học tiếng Nga.

Đấy là kinh nghiệm khi học. Khi đi làm lại lại tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm để có thể làm tốt cái nghề phiên dịch. Không có sách lý luận nào nhưng qua cuộc đời mình thấy có mấy câu chuyện thế này kẻ lại cho các bạn nghe.

Một là anh phải cố nắm được vấn đề. Phải nắm trước xem buổi tiếp xúc ấy sẽ nói về đề tài gì để chuẩn bị. Thời ấy, bọn mình hay nói về việc thực hiện Hiệp định Geneve, đấu tranh chống những việc vi phạm Hiệp định Geneve…để chuẩn bị. Cái chính là thường xuyên phải ham mê tìm hiểu những vấn đề chính trị đối ngoại; điều đó có ích rất nhiều trong cong tác phiên dịch. Suốt đời, từ khi làm phiên dịch, sau làm nghiên cứu cho đến khi giữ các cương vị lãnh đạo, mình thấy chuyện nắm được vấn đề là điều cốt tử của người phiên dịch. Anh có thể hiều ngôn ngữ nhưng anh không nắm được vấn đề thì cũng không dịch được đâu, chưa kể khi về còn phải ghi lại biên bản tiếp xúc nữa. Khi mình đã lên làm lãnh đạo rồi, đi dự các hội nghị quốc tế, có khi anh em phiên dịch tuy giỏi ngoại ngữ hơn mình nhiều vẫn phải hỏi xem người ta nói gì; anh em làm báo cáo có khi không chuẩn xác, mình lại phải chữa lại.

Thứ hai là phải nắm được con người. Mỗi người có một đặc tính riêng, nếu anh không nắm được phong cách và cách nói của người ta thì sẽ rất lúng túng. Thí dụ trước đây mình có dịch cho ông Ung Văn Khiêm, lúc bấy giờ coi như Thứ trưởng Thường trực của Bộ vì Bộ trưởng là ông Phạm Văn Đồng có mấy khi đến Bộ đâu. Dịch cho ông Ung Văn Khiêm anh phải biết ông ấy hay nói dây cà ra dây muống. Sau này cũng có nhiều người có cách nói như thế, nghĩ đến đâu nói đến đấy khiến người dịch không biết họ nói gì, không biết dịch ra sao. Trong trường hợp ấy anh phải nắm ý chính rồi dịch theo ý chứ đừng câu nệ chữ. Hay là dịch cho ông Lê Duẩn chẳng hạn. Ông ấy có đặc điểm là tư duy rất sâu, thường rất trìu tượng; tư duy của ông ấy thường đi trước cả ngôn ngữ, có khi cái ngôn ngữ của ông ấy chỉ thể hiện một nửa hoặc một phần ba cái suy nghĩ của ông ấy mà thôi. Nhưng anh dịch thì anh không thể nói với ông Brê-giê-nhép là ông Duẩn chỉ nói một phần ba ý được. Anh phải nói đủ để ông Brê-giê-nhép hiểu là ông Duẩn muốn nói gì. Ông Phạm Văn Đồng có lối nói chuẩn xác nhưng đôi khi bóng bẩy, câu chữ của ông ấy dùng rất cân nhắc, hàm ý rất sâu sắc, nếu anh không chọn được từ đúng với phong cách của ông Đồng thì không dịch được cho ông Đồng. Hay ông Trường Chinh thì tính chuẩn xác lại rất cao, nói rất đơn giản nhưng tính chuẩn xác rất cao, dùng từ phải rất chuẩn, kể cả tiếng Việt. Khi dịch xuôi sang tiếng Việt mà dùng những từ Hán-Việt không chuẩn là ông ấy nhắc ngay. Thí dụ anh dùng chữ vinh quang là không được, phải quang vinh mới đúng, hoặc đảm bảo là không được, phải bảo đảm mới đúng. Còn Bác Hồ nói cũng rõ ràng, đơn giản nhưng ông Cụ đôi khi hay ví von, rất khó dịch, thường phải “đánh vòng”, dịch nghĩa vậy. Mình nhớ có lần khi đề cập tới sự viện trợ của nước anh em Cụ nói: “Cho trâu thì phải cho cả trão”, mình bí quá đành giải thích vòng vo để bạn hiểu. Như vậy cái kinh nghiệm thứ hai của người làm phiên dịch là biết vấn để rồi nhưng còn phải biết con người mình phục vụ. Bên cạnh đó lại còn phải nắm con người đối thoại nữa. Việc này thật khó vì anh có biết được người ta đâu, thí dụ ngày xưa phía Liên Xô chẳng hạn, khi dịch mà vớ được ông Mi-côi-an, từng là ủy viên BCT ĐCS LX lâu năm, có thời là Phó Chủ tịch HĐBT rồi Chủ tịch Đoàn Chủ tịch XVTC thì thôi rồi, ông ấy là người Ác-mê-ni nói tiếng Nga, nói lùng bùng trong cổ, nghe khó lắm. Ông Brê-giê-nhép khi cao tuổi đeo răng giả, khi nói có khi hàm răng giả lỏng ra thành thử nghe thật không dễ. Người của phía mình còn biết được, người nước ngoài thì khó bề nắm được đặc điểm của người ta..

Tóm lại, khi dịch thì phải biết chuyện, biết người, biết người mình rồi lại phải cố biết người người ta. Cái thứ ba là cần không ngừng mở rộng kiến thức, càng rộng càng hay. Trước tiên phải biết nước mình. Tại sao phải biết nước mình ? Vì anh đi với người ta, ngồi trên xe với người ta có khi mấy chục, mấy trăm cây số, người ta hỏi về đất nước mình mà không biết gì thì thật ngượng. Người ta có hỏi thủ trưởng đâu, người ta hỏi anh phiên dịch chuyện nọ, chuyện kia thì anh cũng phải biết chứ! Thế rồi phải biết nước người. Mình đi với lãnh đạo ta sang Liên Xô và các nước Đông Âu cũ, các cụ hỏi chỗ đó là thế nào chẳng hạn thì mình cũng phải biết để giới thiệu chứ. Không chỉ biết địa lý, lịch sử, văn hóa…mà còn phải biết nội tình người ta nữa. Ví dụ có lần ông Đồng hỏi tôi cái ông lãnh đạo ấy của bạn là thế nào, liệu có lên giữ cương vị cao nữa không? Nhờ nắm được nội tình của bạn mình đã trả lời rằng, không có khả năng ấy vì lẽ này, lẽ kia. May mà quả nhiên đúng như vậy ! Nhưng nếu quả là anh không biết thì phải nói là không biết.Sau đó phải cố mà biết cái điều anh chưa biết. Tuy vậy cái cần biết là vô cùng, làm sao một con người có thể biết được mọi chuyện. Cái thủ thuật của mình là thế này : cố tìm hiểu, dù chỉ lớt phớt trước khi “vào trận” để đỡ tẽn tò. Khi đoàn đi thăm nhà máy ô tô chẳng hạn thì trước đó mình phải tìm hiểu những từ có liên quan đến ô tô, những khái niệm liên quan đến sản xuất ô tô. Có chuyện mình nhớ đời là có lần đi với ông Nguyễn Văn Hiếu, lúc bấy giờ là Đại diện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng thăm các nước XHCN vì Chính phủ Cách mạng Lâm thời chưa ra đời. Mình được cử đi giúp đoàn. Sau khi thăm Liên Xô thì thăm Mông Cổ, vào một cái viện bảo tàng, họ giới thiệu những con thú của Mông Cổ. Mình làm sao mà biết những con thú nào là con thú nào vì nhiều con thú lắm. Ông Hiếu lại biết vì ông ấy là giáo sư, ông ấy giảng giải cho mình. Mình cũng ngượng nhưng ông ấy cũng thông cảm, ông ấy bảo làm sao mà anh biết hết được. Từ đấy mình mới rút ra kinh nghiệm là trước khi đến một hoạt động gì thì anh phải cố tìm hiểu những từ liên quan đến cái chỗ mà anh đến tham quan, tìm hiểu đến mức tối đa có thể được. Cái đó rất khó chứ không dễ đâu.

Cái thứ tư là phải biết biến bác. Người phiên dịch thường gặp những tình huống rất bất ngờ. Anh không biến bác được thì những lúc ấy không ứng xử được, rất lúng túng. Có những người đã ngất đi đấy, vì gặp toàn những nhân vật quan trọng cả. Không nắm được vấn đề, không đáp ứng được yêu cầu, hoảng loạn là xỉu đi thôi. Hồi ông Chu Ân Lai sang thăm chính thức Việt Nam lần đầu tiên năm 1956, người phiên dịch vừa ra đã xỉu, phải đưa vào trong. Có lẽ trông thấy Bác Hồ, biết Cụ tiếng Hán rất giỏi, nên khiếp. Một lần chiêu đãi tại Sứ quán Liên Xô, Bác Hồ cũng đến, các vị lãnh đạo khác cũng đến, người phiên dịch đứng như trời trồng thôi, không dịch được. Sau đó ông Tô (Thủ tướng Phạm Văn Đồng) bảo Khoan lên dịch đi. Như vậy người phiên dịch thần kinh phải rất vững và phải rất biến bác. Nói biến bác là vì thế này : có lần mình dẫn một đoàn Đảng của Hung-ga-ri do ông Fox dẫn đầu, sau ông này làm Thủ tướng, xuống thăm Hải Phòng. Lúc bấy giờ là vào năm 1967, Mỹ ném bom ghê lắm nên đoàn phải đi rất sớm. Mít tinh chào mừng tổ chức ở nhà máy cơ khí Duyên Hải – lá cờ đầu của ngành cong nghiệp lúc ấy. Ông giám đốc nhà máy cầm một quyển vở đọc diễn văn chào mừng đoàn. Mình đứng đằng sau ông ấy, ông Lê Thanh Nghị cũng đứng đằng sau, thấy ông giám đốc nói thao thao bất tuyệt mà quyển vở thì trắng trơn, không có chữ nào cả. Thế mà ông ấy đọc một bài diễn văn hoàn chỉnh mới giỏ chứ! Chỉ có điều, đón đoàn Hung nhưng ông ấy toàn nói về chuyện Ba-lan. Bây giờ mình dịch thế nào? Dịch theo ông ấy thì buồn cười quá vì đón đoàn Hung mà lại cứ nói toàn chuyện Ba-lan, đoàn Hung người ta có thể hiểu lầm. Vậy là mình phải biến bác đi thành chuyện Hung, mặc ông ấy muốn nói gì thì nói, mình cứ chuyện Hung mình nói. Đến lúc mít tinh xong, ông Lê Thanh Nghị trách ông giám đốc tại sao đón đoàn Hung mà anh toàn nói chuyện Ba-lan là thế nào. Ông giám đốc bảo : báo cáo thủ trưởng, Hải Phòng chúng em chỉ hay đón thủy thủ Liên Xô và Ba Lan thôi, chúng em chả biết Hung là cái gì (!?) Nếu trường hợp ấy anh không biến bác thì chết.
Hay là có một lần mình đi với một vị khác, ông này quên béng mất diễn văn ở đâu đấy. Ông này nửa đùa nửa thật bảo bây giờ tôi cứ đọc chuyện Kiều, còn anh liệu đường mà nói. Đấy, những chuyện như thế có lúc xẩy ra đối với người phiên dịch. Anh phải biết biến bác, tình huống bắt anh phải biến bác. Tất nhiên biến bác làm sao không hại tới ai cả, thường nói đùa với nhau là không ảnh hưởng gì tới hòa bình thế giới. Chỉ biến bác điều tốt thôi, nói hữu nghị thôi, và phải vận dụng cái kiến thức của anh có về quan hệ với nước bạn. Nói như vậy là lại quay về kinh nghiệm trên là phải có kiến thức, không có kiến thức thì lúc bấy giờ anh nói gì được?
Phiên dịch thì phải nhớ. Có người nói thao thao bất tuyệt, quên cả phiên dịch; anh lại không ngắt lời được, đành phải cố nhớ thôi. Mỗi người có một cách nhớ: có người ghi thì nhớ, có người tập trung thì nhớ…Thủ thuật của mình là chăm chú nghe, nhớ lấy ý chính, bấm độn ngón tay để nhớ có bao nhiêu ý; khi dịch “thanh lý” dần theo các ngón tay. Nếu mình ghi là quên tiệt! Nói tóm lại mỗi người phải tìm ra thế mạnh riêng, Bẩm sinh mình có tư duy tổng hợp, nắm bắt được ý chính rồi xếp đặt trong óc, khi cần diễn đạt thì theo trình tự xếp sẵn trong óc.

Còn một bài học tiếp theo là anh phải biết cư xử đúng cương vị của anh. Người phiên dịch thì đừng có choi choi, bao giờ cũng phải khiêm tốn, né mình, đứng đằng sau. Sau này lên làm lãnh đạo, mình thường nhắc anh em phiên dịch là đừng che cái ca-mê-ra của người ta…

Lều văn Thăng Sắc :

- Bây giờ xem vô tuyến thấy một vài cán bộ lễ tân cũng vậy, nhiều khi đứng ở những vị trí rất không phải của mình…

Anh Vũ Khoan :

- Bây giờ tôi cũng thấy có cán bộ lễ tân, cán bộ phiên dịch cứ đi trước cả lãnh đạo, muốn rơi vào màn hình. Cái đó tuyệt nhiên là không nên.

Ngay chuyện ăn anh cũng phải khiêm tốn. Cái thủ thuật ăn là anh phải cắt miếng nhỏ chứ đừng bao giờ ăn miếng to, phòng khi cần là anh có thể nuốt luôn được. Hay anh nhằm lúc nào mà ăn, đây là câu chuyện cũng do kinh nghiệm thôi chứ lý luận gì thì cũng rất khó. Hay là có khi người ta nói sai thì đừng có cải chinh, đó không phải là việc của anh. Nếu cải chính anh sẽ đặt người ta vào tình thế khó. Mình gặp một trường hợp coi là bài học nhớ đời. Lần đó được đi với ông Phạm Văn Đồng thăm nhà máy ZIL là nhà máy sản xuất ô tô của Liên Xô. Nhà máy có làm một cái tủ ảnh giới thiệu quan hệ Việt Nam-Liên xô để đón đoàn. Ông giám đốc chỉ vào một cái ảnh nói đây là đồng chí Phạm Văn Đồng. Mình thấy không phải, bèn láu táu nói: đấy là ông Dương Bạch Mai, TTK Hội Việt-Xô hữu nghị.. Lúc bấy giờ ông ấy cũng rất là ngượng. Khi về Sứ quán, ông Phạm Văn Đồng bảo: Khoan ơi, mình ra vườn nói chuyện đi. Khi ra vườn đi dạo, ông Đồng nói những chuyện khác, rồi ông ấy nói : này có chuyện này tôi muốn nói với Khoan.. Lúc ở nhà máy ấy mà, những chuyện như thế đừng cải chính, có chết ai đâu, làm cho người ta khó ra. Những chuyện như thế thì cứ lờ đi thôi, có hại gì đâu.

Ở đây mình học được hai cái. Một là cách ứng xử của ông Đồng. Ông ấy không mắng mình, không nói trước mặt anh em. Ông ấy lôi ra một góc để tâm tình. Thực ra ông ấy hoàn toàn có quyền mắng mình, nếu không mắng thì nhận xét mình trong cuộc họp. Thế mà ở chỗ có người ông ấy không nói gì, lại rủ mình đi ra và chuẩn bị tinh thần cho mình, chứ không độp vào ngay. Ông ấy nói chuyện thân mật, làm cho mình rất thoải mái, rồi sau như vô tình nhắc. Bài học mình rút ra là đừng có choi choi, dù là phiên dịch hay cán bộ gì thì cũng đừng choi choi, khách người ta có lỡ lời gì thì anh đừng cải chính. Thứ hai là cách ứng xử với con người của ông Phạm Văn Đồng.

Nói những chuyện phiên dịch thì muôn hình vạn trạng. Không phải bây giờ mình nói để động viên lớp trẻ đâu, bản thân mình cảm nhận thấy nghề phiên dịc không tồi, một cái nghề rất đáng làm và nếu làm tốt thì rất là có ích cho đất nước và bản thân học được rất nhiều điều, cả kiến thức lẫn cách làm người. Lại rất lý thú nữa! Phải nói rằng sở dĩ mình trưởng thành lên một phần do làm phiên dịch. Không phải ngẫu nhiên mà lãnh đạo Bộ Ngoại giao thế hệ chúng mình làm phiên dịch rất nhiều: Anh Cầm, Lê Mai, Dy Niên rồi tiếp theo là Nguyễn Đình Bin,Lê Công Phụng, Chu Tuấn Cáp… Điều đó nói lên rằng chính những anh em phiên dịch có điều kiện để trưởng thành. Tất nhiên điều kiện bây giờ khác.

Lều văn Thăng Sắc :

- Thưa anh, các thế hệ sau này cũng rất nhiều người trưởng thành lên từ nghề phiên dịch, trở thành các Đại sứ hoặc các Vụ trưởng.

Anh Vũ Khoan :

- Nói chuyện làm nghề thì còn nhiều chuyện lý thú nữa nhưng khoanh lại thì làm nghề phiên dịch chính là một cái cầu để trưởng thành trong lĩnh vực ngoại giao đấy, một cái cầu rất tốt đấy. Không đơn thuần chỉ là cái cầu nối giữa các dân tộc mà còn là cái cầu cho bước đường tiến bộ, không phải cá nhân tôi đâu mà còn nhiều anh em khác, là cái bậc thang rất là tốt đấy.

Chỉ có một cái còn trăn trở, đó là chính sách đối với phiên dịch cho đến nay vẫn không có. Khi mình làm lãnh đạo Bộ, lãnh đạo Chính phủ, lãnh đạo Đảng thì cũng có cố gắng, đôi lần thử để làm thay đổi, trong đó có cái chính sách gọi là phụ cấp ngoại ngữ. Nhưng cái sức cản là cơ chế, “kẻ thù cơ chế” đâu cũng xuất hiện! Người ta hỏi tại sao anh phiên dịch lại được, chúng tôi nghề khác lại không được. Hay là thang bậc lương của nước mình nó chỉ có đến thế thôi. Thế là thôi. Thành ra mình cho đến nay chưa có người phiên dịch giỏi tầm cỡ quốc tế. Phiên dịch thì vẫn có nhưng ở tầm cỡ quốc tế thì chưa có. Vì chưa có chính sách đào tạo, đãi ngộ. Phải có trướng lớp đào tạo chuyên, nếu cần thì cử đi học ở các trường phiên dịch danh tiếng ở nước ngào, thậm chí gửi các cháu nhỏ học ở nước ngoài, ném họ vào phiên dịch ở các tổ chức quốc tế. Đâu có phải là cứ biết ngoại ngữ là làm được phiên dịch? Nhớ lại hồi mình còn làm ở Phòng phiên dịch, lúc bấy giờ ở Bộ có phòng Liên Xô nên tiếng Nga chẳng có mấy việc. Mình mới nói với một vị ở Vụ Tổ chức cán bộ là chúng tôi ngồi buồn quá, đề nghị chuyển sang việc gì khác cũng được. Vị này bảo nếu không có tài liệu tiếng Nga thì dịch tiếng Anh tiếng Pháp cũng được chứ gì (?!) Mình chỉ còn biết trố mắt, giơ tay lên trời chịu thua mà thôi.

Lều văn Thăng Sắc :

- Lúc bấy giờ ai là Trưởng phòng Phiên dịch ?

Anh Vũ Khoan :

- Là ông Nguyễn Văn Huyên, ông Huyên có mái tóc bạc trắng, nguyên trước dậy toán, có thời đã làm Giám đốc Đài phát thanh, tiếng Anh, tiếng Pháp đều giỏi nhưng chỉ thiên về dịch viết. Ông là người cực kỳ hiền lành, cực kỳ chịu khó, cực kỳ tỉ mỉ, ngồi chữa lẩn mẩn từng chữ rất là tốt. Phòng Phiên dịch lúc bấy giờ có tổ tiếng Anh, tiếng Pháp. Tiếng Pháp có mấy cụ Việt kiều về như cụ Tương, bà Dy Dy, ông Thông, tiếng Anh có ông Phương.

Lều văn Thăng Sắc :

- Về sau này đến lượt các anh Dy, anh Diệm, anh An, Đức Hùng, Đức Tâm, các chị Hồi, chị Ninh, chị Nga, chị Huyền, anh Thạch…?

Anh Vũ Khoan :

- Sau, sau lắm. Thời mình thì tổ tiếng Nga có anh Quang Xồm, anh Tước và mình. Tiếng Trung có anh Phách, chị Khang, cô Vi là người Việt Kiều ở Vân Nam về. Những người kể trên thuộc thế hệ những năm 80, khi mình đi công tác nước ngoài rồi chuyển sang các đơn vị khác nên không biết.

Sau này mình có dịp so sánh người phiên dịch của Việt Nam với người phiên dịch của Trung Quốc, thấy phía phiên dịch Trung Quốc tiến bộ hơn rất nhiều. Mình thử mới xem vì sao như thế? Mình có hai nhận xét: một là, người Trung Quốc họ chịu khó hơn người Việt Nam rất nhiều, phiên dịch của họ đi đâu, cái gì họ cũng ghi, rất tỉ mỉ, rất cẩn thận. Thí dụ ngồi ăn chẳng hạn, khi mình đối thoại với phía bạn thì người phiên dịch không bao giờ ăn cả mà cứ ghi ghi chép chép mặc dù bên cạnh có người ghi biên bản rồi. Bên Việt Nam mình thì rất ít khi thấy ghi chép như thế. Qua đấy mình thấy tính chịu khó của phiên dịch Trung Quốc nó khác. Cái thứ hai là chính sách dùng phiên dịch của họ có nhiều cái hay. Thí dụ mình hỏi anh em phiên dịch Trung Quốc thì biết họ trả bồi dưỡng cho phiên dịch rất cao, có phân biệt, nếu anh dịch cho Thứ trưởng thì được bao nhiêu Nhân dân tệ, dịch cho Bộ trưởng thì được bao nhiêu, dịch cho lãnh đạo toàn quốc như Tổng Bí thư, Thủ tướng thì bồi dưỡng cao nữa. Ta thì không phân biệt như thế. Hay là ở các Hội nghị quốc tế mình thấy trong đoàn Trung Quốc cán bộ trẻ rất đông, không biết họ đến có việc gì mà đông như thế. Hóa ra họ cho đi đào tạo, cứ thả anh vào đấy thôi. Tác dụng trước mắt có khi không sờ thấy nhưng mà lâu dài họ quen với môi trường, nắm được vấn đề, quen giao tiếp, tất cả những cái đó thấm vào người họ. rồi họ trưởng thành thôi. Mình không có chính sách đó có thể do không có nhiều tiền nhưng cái chính là chưa có chính sách. Nhiều đoàn đi mang theo những người không làm được cái việc gì cả, theo kiểu “chính sách”, “cho đi mọt chuyến cho biết”, còn những người cần đào tạo như cán bộ nghiên cứu cũng như cán bộ phiên dịch thì không được mang theo. Người ta khác, họ mang theo những anh không làm việc nhưng để đào tạo. Hai cái approches (cách tiếp cận) hoàn toàn khác nhau, thế làm sao mình có người tài được ? Như vậy nói chung, về quan điểm ở tầm quốc gia đối với công tác phiên dịch, một lĩnh vực rất quan trọng, thì chưa có.

Lều văn Thăng Sắc :

- Xin cám ơn anh Khoan.
Những ai quan tâm tới việc học ngoại ngữ nói chung và nghề phiên dịch nói riêng chắc chắn sẽ thấy ở câu chuyện của anh nhiều bài học bổ ích.

Những anh chị em đã làm ở Phòng Phiên dịch nếu đọc chia sẻ này chắc cũng nhớ lại nhiều kỷ niệm, nhớ tới nhiều đồng nghiệp một thời. Khi đọc chia sẻ này của anh Vũ Khoan mà anh chị nào có ý muốn trao đổi, bổ sung hoặc cùng nhau nhắc lại những kỷ niệm xưa thì Lều văn Thăng Sắc xin rất hoan nghênh.

Wednesday, June 8, 2011

Nguyễn Ái Quốc - người Việt Nam đầu tiên có tranh biếm họa đăng báo

By Lý Trực Dũng
source: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&News=4074&CategoryID=41

Ở Việt Nam, tranh dân gian Đông Hồ có rất nhiều chất biếm họa mà nổi bật là những bức Đánh ghen, Hứng dừa, Đám cưới chuột… lịch sử báo chí Việt Nam ghi nhận sự ra đời của tờ báo Quốc ngữ Việt Nam đầu tiên là tờ Gia Định báo, 1865. Nhưng tranh biếm họa được chính thức đăng ở một tờ báo Việt Nam thì muộn hơn rất nhiều: vào đầu những  năm 30 của thế kỷ trước ở trên tuần báo LOA, tuần báo Phong hóa, tuần báo Ngay nay… Đặc biệt, với sự ra đời của hai nhân vật biếm họa huyền thoại Lý Toét – Xã Xệ…
Nhưng ai là người Việt Nam đầu tiên có tranh biếm họa được đăng báo?


Tranh đả kích do Nguyễn Ái Quốc vẽ
đăng báo Le Paria số 5 ngày 1-8-1922
Người Việt Nam đầu tiên có tranh biếm họa được đăng báo chính là Nguyễn Ái Quốc, đó là những tranh biếm họa đăng trên tờ Le Paria (Người cùng khổ) xuất bản ở Pháp từ tháng 4- 1922 đến tháng 4-1926. Cụ thể là hai bức tranh: Văn minh bề trên (Civilisation su pé rieure) và Triển lãm thuộc địa (Exposition coloniale) đăng trên số 2.

Nguyễn Ái Quốc tham gia vẽ biếm họa cũng như phần lớn các họa sĩ biếm họa trên thế giới, không kinh qua trường lớp hội họa và là những người tự học xuất thân từ đủ mọi tầng lớp xã hội khác nhau như kỹ sư, thầy thuốc, thợ cơ khí, thợ ảnh, doanh nhân, sĩ quan quân đội, chính khách… chính vì thế họ người hơn, đời hơn, sâu sắc hơn và nhạy cảm, bức xúc hơn với những vấn đề cấp bách của xã hội, của con người và tất nhiên là họ phải rất trí tuệ… Không phải ngẫu nhiên mà người ta xếp họa sĩ biếm họa vào giới trí thức. Biếm họa của Nguyễn Ái Quốc thuộc tranh biếm họa chính trị.


Người vẽ biếm họa chính trị cũng được coi là nhà báo vẽ. Trường hợp này càng đúng khi chúng ta đều biết rằng Nguyễn Ái Quốc ngay từ năm 20 của thế kỷ 20 đã là một nhà báo lớn về tầm tư tưởng, sắc sảo về lý luận, giỏi về châm biếm. Đến nay người ra đã xác định được có năm tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc được đăng ở báo Le Paria, ngoài hai bức tranh nêu trên, còn có ba bức khác là: Hội nghị An-giê (La Confé rence D’Angier), Vi hành (Incognito!...), Sự phục thù của Tu-tăng Ca-mông (Represailles de Toutan Kamon).

Tranh đả kích do Nguyễn Ái Quốc vẽ đăng báo Le Paria số 26 tháng 6-1924

Điều làm chúng ta phải suy nghĩ là cho đến nay hầu như không có bất kỳ một họa sĩ biếm họa Việt Nam nào vẽ về những đề tài quốc tế khi nó không liên quan trực tiếp đến Việt Nam, trong khi đó cả năm bức tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc đều đã đề cập trực diện đến những vấn đề thời sự quốc tế nóng bỏng lúc bấy giờ là chủ nghĩa thực dân, áp bức, nô lệ, nô dịch văn hóa… Phần lời ở bức tranh một người dân An Nam gầy gò đội cái nón lá, mặc quần áo rách, phải kéo một ông chủ Tây to đùng, nằm ngửa mồm phì phèo xì gà, quát nạt người phu xe được ghi bằng ba thứ tiếng: Việt Nam, Tây Ban Nha và Pháp… Kiếp thân trâu ngựa kéo xe cho thực dân không chỉ còn là nỗi nhục của người Việt Nam, mà nó cũng là nỗi nhục chung của tất cả các nước thuộc địa. Ở một bức tranh khác, tính khái quát còn cao hơn: Một ông chủ thực dân đứng thẳng người hai chân giạng ra, dẫm lên đầu, lên cổ một người da đen châu Phi, một người da vàng châu Á đang ở trần, tay hắn cầm một túi vàng dang ra, đắc thắng. Ở phía sau là vài cây cọ, một cái cuốc chim còn cắm vào mảnh đất sỏi đá nhọc nhằn của miền thuộc địa… Của cải của họ đã bị bọn thực dân trắng trợn chiếm đoạt hết.

Còn bức tranh Sự phục thù của Tu-tăng Ca-mông thể hiện tầm tri thức của người vẽ và đòi hỏi người xem cũng phải có kiến thức nhất định về Ai Cập cổ đại…

 
Bút pháp trong tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc khá phóng khoáng. Tranh đơn giản, không sa vào chi tiết… làm cho người xem dễ nhận ra chủ ý của tác giả, họ cảm thấy những bức tranh biếm họa này gần gũi với cuộc sống của chính họ, chia sẻ với nỗi thống khổ của họ, làm cho họ phải nghĩ về số phận của mình, nỗi bất công mà mình đang gánh chịu.


Tranh đả kích do Nguyễn Ái Quốc vẽ đăng báo Le Paria tháng 5-1922
Biếm họa của Nguyễn Ái Quốc là minh chứng tốt nhất chứng tỏ biếm họa chính là nguồn tư liệu lịch sử trung thực, quý báu. Từ những tranh biếm họa như thế này, chúng ta và thế hệ mai sau sẽ học được rất nhiều điều về lịch sử của chính mình.