Tuesday, December 13, 2011

Bốn đời tổng thống với bình thường hóa bang giao Việt - Mỹ


"Phía Việt Nam đã phạm sai lầm, ít ra là trong năm 1977, khi cố yêu cầu phía Mỹ thực hiện điều 21 của Hiệp định Paris, bởi vì hiệp định này đã bị cả hai phía Việt Nam vi phạm. Vì vậy, không đời nào quốc hội Mỹ chấp nhận chuyện này. Và đòi hỏi của phía Việt Nam, trong nửa nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Jimmy Carter, đã tạo cớ cho những người muốn chống lại bình thường hoá bang giao Mỹ - Việt" - Cựu Đại tá Lục quân Andre Sauvageot. 

LTS: Năm 1964, có một đại uý trẻ của Lục quân Mỹ được cử sang Việt Nam với vai trò cố vấn cho một quận trưởng của Chế độ Việt Nam Cộng hoà.

Chín năm sau, khi Hiệp định Paris được ký kết, viên sĩ quan Mỹ này kiên quyết từ chối kéo dài sự phục vụ của mình ở Việt Nam, mặc dù, anh ta vẫn tiếp tục ở lại trong quân đội với một vai trò khác - sĩ quan huấn luyện tại một trung tâm huấn luyện ở Mỹ. Lý do viên sĩ quan này đưa ra là sự "cố đấm ăn xôi" của người Mỹ ở Việt Nam là vô nghĩa, và sự ủng hộ và kỳ vọng của Chính quyền Washington đối với Chế độ Việt Nam Cộng Hoà là không có cơ sở!.
Đó là Andre Sauvageot.

Người sĩ quan trẻ tuổi này sang Việt Nam với hai niềm tin. Thứ nhất là bổn phận của một người lính là phải sẵn sàng ra trận vì Tổ quốc. Thứ hai là ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản ra toàn Việt Nam và Đông Nam Á!

Andre trở về Mỹ với một niềm tin bị đánh mất. "Chính quyền Mỹ lúc đó đã nói dối nhân dân Mỹ và những người lính như chúng tôi về nguy cơ bành trướng của những người cộng sản Bắc Việt, hoặc, họ đã nói dối cả chính mình", Andre nhận định.

Với nhận thức như vậy, Andre đã cố gắng góp sức mình vào việc hàn gắn và phát triển quan hệ giữa hai nước, từ vị trí chuyên viên Bộ Quốc phòng, Ngoại giao..., đến cương vị một nhà kinh doanh. Từ vị trí một phiên dịch xuất sắc cho các cuộc đàm phán quan trọng giữa hai phía về bình thường hoá, đến một chuyên gia phân tích chính trị sắc sảo.
Cựu Thứ trưởng Lê Văn Bàng, người đã khuyên Andre nên nhận lời mời của General Electric làm trưởng đại diện cho họ tại Việt Nam đầu năm 1993, để có cơ hội đóng góp vào việc cải thiện quan hệ giữa hai nước, đã nhận xét:

"Có những lúc, cuộc tranh luận về vấn đề POW/MIA, vào cuối những năm  '80 rất căng thẳng, hai bên không thoả thuận được với nhau. Ông ấy (Andre Sauvageot), mặc dù chỉ là một phiên dịch, đã đứng ra dàn hoà hai bên, và làm cho không khí nó êm ái trở lại để đi đến kết quả. Sau này ông ấy nghiên cứu đường lối chính sách đối ngoại  của Việt Nam và chuyển sang tiếng Anh, để giúp người Mỹ tại Mỹ hiểu rõ hơn lập trường của Việt Nam."
Tuần Việt Nam xin giới thiệu đánh giá về quá trình bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và Việt Nam qua bốn đời tổng thống Mỹ của ông Andre Sauvageot, với tư cách một nhân chứng, một chuyên gia phân tích và một cử tri.

- Phóng viên Huỳnh Phan: Theo Peter Arnett, cựu phóng viên chiến trường ở Việt Nam và cũng là người theo dõi quá trình bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ thời hậu chiến, Tổng Thống Jimmy Carter có quan điểm tiến bộ, còn Tổng Thống Ronald Reagan thì lại là người bảo thủ, trong quan hệ với Việt Nam. Theo Peter Arnett, quan điểm của chính quyền Reagan là không muốn có một Việt Nam mạnh. Và chỉ khi Tổng thống George W.H. Bush (cha) lên, chính quyền Mỹ mới nhận thức rằng ủng hộ cho Pol Pot là khuyến khích cho một tội ác dã man.
Là người tham gia gần như từ đầu vào tiến trình bình thường hoá quan hệ Mỹ - Việt, ông có chia sẻ nhận định này của nhà báo Peter Arnett hay không?

- Cựu Đại tá lục quân Andre Sauvageot: Tôi đồng ý với nhận định đó, nhưng chỉ một nửa thôi, với cả ba người. Tôi bỏ phiếu cho Jimmy Carter một lần, Ronald Reagan 2 lần, và George Bush một lần.
Vậy chúng ta hãy bắt đầu từ Tổng thống Jimmy Carter. Tại sao ông bỏ phiếu cho ông ta?
Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, tôi quyết định không bỏ phiếu cho ứng cử viên của Đảng Cộng hoà của Richard Nixon nữa. Và tôi chọn Jimmy Carter vì tôi nghĩ ông thông minh, nhân đạo.

Tôi biết một số người trong Nhóm tư vấn của Tổng thống Carter trong thời gian chuyển giao quyền lực. Ngay khi Carter trúng cử tôi đã viết một báo cáo nêu lý do tại sao cần thiết lập bang giao với Việt Nam, nhằm giúp họ về lập luận để thuyết phục ông Carter. Họ thích, và phản ứng của Carter lúc đầu cũng tích cực.

Và phía Việt Nam cũng đã phạm sai lầm, trong năm 1977, và bỏ lỡ cơ hội bình thường hoá.
Ông nói tới lập trường kiên quyết của phía Việt Nam buộc Mỹ phải thực hiện điều 21 của Hiệp định Paris?

Đúng. Bởi hiệp định này đã bị cả hai Việt Nam Cộng hoà và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vi phạm. Mặc dù Việt Nam Cộng hoà vi phạm trước, và vi phạm nhiều lần, nhưng vi phạm của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vi phạm lớn hơn và đã thành công. Đầu năm 1974, tôi đã cùng một Thiếu tướng của Cơ quan Tình báo Quân đội Mỹ sang Việt Nam điều tra chuyện này, và tôi có thể khẳng định nhận định nói trên.

Vì vậy, không đời nào quốc hội Mỹ chấp nhận chuyện thi hành nghĩa vụ tài chính này. Và đòi hỏi của phía Việt Nam, trong nửa nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Carter, đã tạo cớ cho những người muốn chống lại bình thường hoá bang giao. Tôi đã nói rõ điều này với phía Việt Nam, kể cả một số người của Bộ Ngoại giao Việt Nam lẫn người dân mà tôi gặp, khi qua Hà Nội đầu năm 1982.

Và đến cuối năm 1978, khi Việt Nam từ bỏ yêu cầu này từ phía Mỹ, quan điểm của Tổng thống Carter đã quay ngược 180 độ.

Cựu Đại tá lục quân Andre Sauvageot (ngoài cùng bên phải) và Thứ trưởng ngoại giao Lê Văn Bàng.

Lý do chính, theo ông, vì sao?

Tôi theo dõi kỹ và thấy rằng quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia dưới thời Khmer Đỏ, được sự ủng hộ của Trung Quốc, ngày càng căng thẳng. Việt Nam cho đến thời gian đó đã kiên trì với nỗ lực chính trị và ngoại giao với Mao Trạch Đông, rồi Đặng Tiểu Bình, nhưng bất thành.
Và đỉnh điểm là đến cuối năm 1978, Khmer Đỏ cho quân vượt qua biên giới Việt Nam, giết hàng trăm dân thường vô tội.

Rồi sau khi Việt Nam đưa quân vào giải phóng Phnompenh vào 7.1.1979, Đặng Tiểu Bình đã bay sang Washington DC, họp với Cố vấn An ninh Brzezinski, để lấy sự ủng hộ của chính quyền Carter cho cuộc xâm lăng Việt Nam một tháng sau đó. Đặng Tiểu Bình đã nói:" Trung Quốc không phải là một con hổ giấy. Trung Quốc sẽ dạy cho Việt Nam một bài học, vì đã xâm lăng Campuchia."

Tôi còn nhớ rất rõ, sau khi họp với Đặng Tiểu Bình, Brzezinski đã tuyên bố với những tờ báo lớn của Mỹ như New York Times, hay Washington Post như sau: "China said they will teach Vietnam a lesson. I say it will be an entire curriculum."

Anh thấy đấy, Trung Quốc chỉ nói là một bài học thôi, nhưng Brzezinski lại khẳng định rằng không chỉ như vậy, mà cả một khoá học, với biết bao nhiêu bài học. Tức là thể hiện sự ủng hộ Trung Quốc trừng phạt Việt Nam một cách lâu dài rồi còn gì.

Như vậy, ông cho rằng chính Brzezinski đã tác động khiến Tổng thống Carter thay đổi quan điểm với Việt nam?

Tôi chưa bao giờ được nói chuyện trực tiếp với Carter, nên tôi không dám khẳng định điều đó. Tôi chỉ nêu ra các sự kiện theo trình tự của nó thôi.

Thất vọng thứ hai của tôi, là lúc tôi sang Bộ Ngoại giao năm 1980, làm cố vấn chính trị và quân sự của Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách Đông Á - Thái bình dương Richard Holbrooke, một người bạn cũ của tôi từ thời Chiến tranh Việt Nam. Tôi đã hy vọng sang đó sẽ sát cánh cùng Holbrooke, người đàm phán 3 lần với Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền năm 1977 và Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch vào mùa thu năm 1978 về bình thường hoá bang giao Mỹ - Việt, tiếp tục tiến trình này.
Nhưng ông ấy cũng thay đổi 180 độ luôn. Ông ta lại tích cực vận động để cô lập hoá Việt Nam, nhằm ép Việt Nam rút khỏi Campuchia, và giữ ghế của Pol Pot ở Liên Hiệp Quốc.
Holbrooke có mấy lần mang theo tôi đi phiên dịch cho ông ta, khi gặp Đại sứ Việt Nam tại LHQ Hà Văn Lâu. Và tôi còn nhớ mãi một lần Đại sứ Hà Văn Lâu nói: "Mỹ cấu kết với Trung Quốc chống lại Việt Nam tại Campuchia."

Holbrooke phủ nhận: "Không. Chúng tôi không cấu kết với Trung Quốc, mà chúng tôi có quyền lợi song song với nhau."

Tôi hiểu ông bạn cũ và thủ trưởng của tôi, ông Holbrooke, nếu không chấp hành chỉ đạo của cấp trên thì sẽ bị sa thải. Nhưng, với Tổng thống Jimmy Carter thì tôi thất vọng hoàn toàn.

Đó là lý do ông bỏ phiếu cho Ronald Reagan của Đảng Cộng hoà?

Còn thêm một lý do nữa là khi Liên Xô đưa quân vào Afganistan, ông ta đã rất ngạc nhiên và thốt lên: "Tôi đã có sự cam kết của người lãnh đạo cao nhất của Liên Xô là không làm như vậy." Ngây thơ quá!

Ông thấy trong hai nhiệm kỳ của mình, Tổng thống Reagan đã làm được gì, theo sự kỳ vọng của ông?

Tổng thống Reagan, với sự cố vấn của những người hiểu biết, rõ ràng tìm ra cách khai thông quan hệ với Việt Nam mà dư luận và quân đội có thể chấp nhận được. Bởi điều hấp dẫn nhất với người Mỹ lúc đó là kiểm điểm người Mỹ mất tích ở Việt Nam.  Đó là một nhu cầu quốc nội mà không có bất cứ chính trị gia nào chống lại được.

Và nhiệm vụ của Richard Armitage là đạt được sự hợp tác của Việt Nam để kiểm điểm tới mức tối đa người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam. Tôi được cử làm người phiên dịch cho ông Armitage trong cả 3 chuyến ông sang Việt Nam vào tháng 2.1982, tháng 2.1984 và tháng 1.1986.

Nhưng hay nhất là ông Armitage, ngay từ lần đầu sang Việt Nam tháng 2.1982, đã nghe hết và ghi chép lại những ý kiến của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, hay đại diện phía Việt Nam, khi họ muốn mở rộng vấn đề thảo luận, ra bên ngoài vấn đề MIA - chủ đề duy nhất ông Armitage được phép thảo luận. Thậm chí, ông Armitage sẵn sàng ngồi thêm sau giờ thảo luận chính thức, và trịnh trọng hứa với ông Thạch là sẽ báo cáo với Tổng thống Reagan.

Ông có tin rằng những điều ông Thạch đề xuất sẽ được ông Armitage báo cáo lên Tổng thống Reagan?

Tại sao không? Bởi nếu Tổng thống không quan tâm đến chuyện đó, ắt hẳn lần thứ hai, lần thứ ba, ông Armitage sẽ không chịu khó ngồi nghe ông Thạch mở rộng vấn đề đâu, mà sẽ từ chối luôn.

Đó chính là tiền đề quan trọng để Đại tướng John Vessey - đặc phái viên của Tổng thống Reagan - được phép mở rộng nội dung đàm phán, như tìm kiếm người Việt Nam mất tích, hay Operation Smile, đưa bác sĩ Mỹ sang mổ cho trẻ em khuyết tật (hở hàm ếch) của Việt Nam. Tất cả những chương trình đó nằm trong Vessey's initiaves (Những sáng kiến của Vessey).

Tôi nghĩ tất cả những nỗ lực khôn khéo này của chính quyền Reagan đã mở đường cho hai nước thêm xích lại gần nhau, mặc dù vẫn chưa thể bình thường hoá được.

Những nỗ lực đó của ông Reagan đã được người kế nhiệm tiếp tục như thế nào?

Thứ nhất, Tổng thống Bush tiếp tục giữ lại Tướng Vessey làm đặc phái viên, nhằm giữ đà quan hệ. Và điều lớn nhất ông làm được trong nhiệm kỳ của mình vào tháng 4.1992, ông đã ký sắc lệnh nới lỏng lệnh cấm vận, bằng cách cho phép công ty Mỹ mở văn phòng đại diện tại Việt Nam, cũng như cho phép tiếp thị và bán dược phẩm, nhu yếu phẩm, nông sản, và thiết bị y tế.

Nhưng điều tôi khiến tôi thất vọng là vào cuối nhiệm kỳ của mình, ông đã không bỏ hoàn toàn cấm vận đối với Việt Nam. Lúc đó, ông không còn chịu sức ép nào nữa, bởi đã thất cử và chỉ làm nốt những ngày cuối cùng ở Nhà Trắng. Tại sao lại không bỏ cấm vận luôn đi?

Ông nghĩ là vì lý do gì?

Tôi nghĩ là lý do cá nhân. Ông ta không muốn tạo thuận lợi cho người đã thắng ông trong cuộc bầu cử trước đó. Hãy để cho Bill Clinton tự xoay xở, chắc ông Bush đã nghĩ vậy.

Nhưng vì sao ông Bush lại không làm việc đó từ tháng 4 đến tháng 11? Hay vì ngại mạo hiểm? Bởi khả năng mất phiếu ủng hộ từ những người chống bỏ cấm vận, như một số tổ chức cựu binh, hay gia đình người Mỹ mất tích, là hoàn toàn có thể.

Tôi không nghĩ ra một giả thuyết khác hay hơn. Và tôi nghĩ, nếu ông tái đắc cử, việc đầu tiên ông Bush làm là sẽ tuyên bố bỏ cấm vận Việt Nam. Chứ không phải chờ một năm nữa như Tổng thống Bill Clinton.

Tại sao?

Ông Bush thuận lợi hơn nhiều, bởi ông là anh hùng của nước Mỹ trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Còn ông Clinton đã bị mang tiếng trong không ít cử tri Mỹ là kẻ nhát gan, không dám sang chiến đấu ở Việt Nam, nên phản đối quân dịch. Đó là luận điệu tuyên truyền của phe ông Bush trong chiến dịch tranh cử năm 1992.

Còn ông đánh giá thế nào về hành động đó của ông Clinton?

Tôi không nghĩ ông Clinton nhát gan, mà ông sáng suốt thì đúng hơn. Bởi tôi chỉ nhận thức rằng đó là một cuộc chiến tranh vô nghĩa với người Mỹ chỉ sau 9 năm phục vụ tại Việt Nam.
Ông Clinton lại có thêm một cái khó nữa là khi ông chuẩn bị bỏ cấm vận thì lại nổi lên vụ tài liệu Nga liên quan tới giả thuyết rằng Việt Nam đã đưa phi công Mỹ bị bắt sang Nga. Tôi còn nhớ khi dịch cho phái đoàn quốc hội do TNS John Kerry dẫn đầu sang Hà Nội xác minh về câu chuyện này, Thứ trưởng Ngoại giao Lê Mai đã phản ứng rất mạnh. Ông nói với TNS Kerry: "Đó là một âm mưu phá hoại."

Và trong hai nhiệm kỳ của mình ông đã làm được hai việc rất quan trọng: bình thường hoá quan hệ ngoại giao và thương mại với Việt Nam. Tuy Hiệp định thương mại Mỹ - Việt phải chờ sang tới nhiệm kỳ của ông Bush con mới được Quốc hội phê chuẩn.

http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-12-13-4-doi-tong-thong-voi-binh-thuong-hoa-bang-giao-viet-my

Thursday, September 8, 2011

Chiến Tranh Tiền Tệ


CUC CHIN TRĂM NĂM GIA NGÂN HÀNG QUC T VÀ TNG THNG HOA KỲ


Tôi có hai kẻ thù chính: quân đội miền nam trước mặt và cơ cấu tiền tệ sau lưng. Trong hai thế lực này, sự đe doạ của kẻ đứng sau lưng mới là nguy hiểm nhất. Tôi nhìn thấy một nguy cơ trong tương lai đang đến gần chúng ta, khiến chúng ta lo sợ cho sự an nguy của đất nước. Sức mạnh của đồng tiền sẽ tiếp tục thống trị và làm tổn thương đến người dân, và đến khi những đồng tiền cuối cùng tích tụ lại trong tay một số kẻ thì đất nước của chúng ta sẽ bị phá huỷ. Hiện giờ tôi lo lắng cho tương lai của đất nước hơn bất cứ lúc nào, thậm chí còn hơn cả trong tình huống chiến tranh(1).
Lincoln, tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ


Nếu nói lịch sử Trung Quốc được xoay quanh bởi những cuộc đấu tranh quyền lực chính trị, và nếu không hiểu được những mưu tính trong đầu các bậc đế vương thì chúng ta không thể hiểu thấu được cái tinh thần cốt lõi của lịch sử Trung Quốc. Tương tự, lịch sử phương Tây phát triền từng bước theo sự tiến hoá của đồng tiền, nếu không hiếu được cơ mưu của đồng tiền thì không thể nắm được nguồn mạch của lịch sử phương Tây.


Lịch sử nước Mỹ gắn liền với sự can thiệp và âm mưu của các thế lực quốc tế, trong đó, điều khiến người ta sợ nhất chính là sự thâm nhập và âm mưu lật đổ của các thế lực tài chính quốc tế đối với nước Mỹ, nhưng đây cũng là điều chứng mấy ai biết đến.


Việc thiết kế và xây dựng chế độ dân chủ được coi là hành động nhằm ngăn cản sự đe doạ của các thế lực phong kiến chuyên chế. Ở phương diện này, nó đã thu được hiệu quả khả quan, tuy nhiên, bản thân chế độ dân chủ lại không có được sức miễn dịch đáng tin cậy đối với những mầm bệnh chết người mới được sinh ra từ quyền lực của đồng tiền.


Chế độ dân chủ mới bộc lộ khả năng yếu kém trong việc phán đoán và phòng ngự hướng tấn công chủ yếu của các ngân hàng quốc tế đối với việc khống chế quyền phát hành tiền tệ nhằm chi phối toàn bộ quốc gia. "Tập đoàn lợi nhuận đặc thù siêu tiền tệ" và chính phủ do dân Mỹ chọn ra trong thời gian hơn một trăm năm trước cũng như sau cuộc nội chiến Bắc- Nam đã tiến hành những cuộc đấu tranh quyết liệt nhằm xây dựng một định chế tài chính của hệ thống ngân hàng trung ương tư hữu Mỹ. Tổng cộng đã có tất cả 7 tổng thống Mỹ, nhiều uỷ viên quốc hội khác đã bỏ mạng vì cuộc chiến giữa hai thế lực này. Các nhà sử học Mỹ đã chỉ ra rằng, tỉ lệ thương vong của các tổng thống Mỹ so với thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai còn cao hơn nhiều so với tỉ lệ thương vong bình quân của một đoàn thuỷ quân lục chiến!


Cùng với việc mở cửa toàn diện nền tài chính của Trung Quốc, các ngân hàng quốc tế sẽ thâm nhập sâu vào hệ thống tài chính của Trung Quốc, và câu chuyện đã xảy ra cho nước Mỹ hôm qua, liệu có tiếp tục tái diễn ở Trung Quốc hôm nay?

1. Vụ ám sát tổng thống Lincoln

Tối thứ sáu ngày 14 tháng 4 năm 1865, tổng thống Lincoln đã có thể thở phào nhẹ nhõm kể tử khi diễn ra cuộc nội chiến kéo dài bốn năm đầy tang tóc với muôn vàn nguy cơ và gian khổ. Cuối cùng, năm ngày trước khi nhận được tin thắng lợi - tướng Robert Lee thống lĩnh quân đội miền nam đã đầu hàng tướng Grant của quân đội miền bắc - vị tổng thống đã cảm thấy đỡ căng thẳng hơn. Và trong lúc hứng chí, ông đã đến nhà hát Ford ở Washington để xem buổi biểu diễn. Vào lúc 10 giờ 15 phút, lợi dụng lúc không có cận vệ bên cạnh, một kẻ sát thủ đã lẻn tới cạnh tổng thống, dùng một khẩu súng cỡ lớn nhằm thẳng vào đầu ông mà bóp cò. Lincoln bị trúng đạn đổ vật về phía trước. Sáng sớm hôm sau, tổng thống qua đời.
Hung thủ là John Wilkes Booth - một diễn viên có chút tiếng tăm khi đó. Sau khi ám sát xong Lincoln, tay này hoảng sợ bỏ trốn. Ngày 26 tháng 4, hung thủ bị bắn chết trên đường bỏ trốn. Trong xe ngựa của hung thủ, người ta đã phát hiện thấy rất nhiều thư từ viết bằng mật mã và một số vật dụng cá nhân của Benjamin - Bộ trưởng Bộ chiến tranh của chính phủ miền nam và sau này là Bộ trưởng ngoại giao, một người có thực quyền về mặt tài chính ở miền nam đồng thời có mối quan hệ rất thân mật với các đại gia ngân hàng ở châu Âu.
Sau đó, người này đã đào tẩu sang Anh. Sự kiện Lincoln bị ám sát về sau đã được lan truyền rộng ra và nhiều người cho rằng đây là một âm mưu có quy mô lớn. Những người tham gia trong âm mưa này có thể là các thành viên nội các của Lincoln, các ngân hàng ở New York và Philadenphia, quan chức cao cấp của chính phủ miền nam, giới quyền lực trong ngành xuất bản báo chí và các phần tử nổi loạn ở miền bấc.
Thời đó có một giả thuyết lan truyền rộng rãi rằng, Booth không hề bị giết chết, mà là được phóng thích, còn thi thể được mai táng sau này là người đồng mưu của anh ta. Edwin Stanton - Bộ trưởng chiến tranh nắm giữ trọng quyền khi đó đã che giấu chân tướng sự việc. Thoạt nghe thì đây có vẻ là một giả thuyết hoang đường. Thế nhưng, sau khi một loạt các văn kiện bí mật của Bộ trưởng chiến tranh được giải mã vào những năm 30 của thế kỷ 20 thì các nhà sử học đã phát hiện ra một sự thật đầy kinh ngạc về cái chết của tổng thống Lincoln, trên thực tế chẳng khác gì lời đồn thổi của thiên hạ.

Trong bài viết "Tại sao Lincoln bị ám sát?", Otto Eisenschiml - nhà sử học đầu tiên chuyên nghiên cứu về đề tài này đã gây chấn động cho các đồng nghiệp trên thế giới bằng những phát hiện đầy bất ngờ. Sau đó, Theodore Roscoe đã cho công bố kết quả nghiên cứu có sức ảnh hưởng rộng rãi hơn nữa bằng cách chỉ ra rằng:
"Phần lớn các nghiên cứu lịch sử của thế kỷ 19 liên quan đến việc tổng thống Lincoln bị ám sát đều miêu tả sự việc giống như một vở bi kịch điển hình của nhà hát Ford vậy… Chỉ có một số ít nhìn nhận sự việc như là một cuộc mưu sát: Lincoln chết trong tay một tên tội phạm thô bỉ… tội phạm phải bị trừng phạt theo pháp luật; thuyết âm mưu đã bị bóp chết; cuối cùng Đức và Mỹ đã giành được thắng lợi Lincoln cũng đã thuộc về quá khứ".

Thế nhưng, việc giải thích sự kiện ám sát tổng thống vừa không khiến cho người ta hài lòng vừa khó khiến cho người ta khâm phục. Thực tế cho thấy, tên tội phạm liên quan đến cái chết của Lincoln vẫn đang nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật(2). Trong bài viết "Hành động ngu xuẩn" (This One Mad Act) thuộc cuốn hồi ký của mình, Izola Forrester - cháu gái của tên hung thủ - đã nói rằng, bà phát hiện thấy ghi chép bí mật "Kỵ sĩ rạp xiếc" (Knights of the Golden Circle) đã bị chính phủ cố ý cất vào trong kho văn kiện, đồng thời bị Edwin Stanton xếp vào loại tài liệu tuyệt mật. Sau khi Lincoln bị ám sát, bất cứ ai cũng không được tiếp cận với những tài liệu này. Do mối quan hệ huyết thống giữa Izola và Booth, hơn nữa, với tư cách là một nhà văn chuyên nghiệp, cuối cùng bà đã trở thành là người đầu tiên được phép đọc những tài liệu này. Trong cuốn sách của mình, bà đã viết rằng:

Những bao tài liệu cũ kỹ thần bí này được cất giữ trong một két bảo hiểm nằm trong góc khuất giữa nơi đặt di tích của "âm mưu thẩm phán" và căn phòng trưng bày. Nếu không phải là năm năm trước khi đọc những tư liệu (ở căn phòng đó) mà tôi đã tình cờ nhìn thấy cạnh chiếc tủ, thì có thể chẳng bao giờ tôi biết chúng (tài liệu bí mật) tồn tại. Những tài liệu ở đây có liên quan đến ông nội tôi. Tôi biết ông từng là thành viên của một tổ chức bí mật. Tổ chức này chính là "Kỵ sĩ rạp xiếc" do Bickley sáng lập nên. Tôi có giữ một tấm ảnh của ông - bức ảnh ông chụp chung với họ - tất cả họ dầu ăn mặc chỉnh tề.

Bức ảnh này được phát hiện trong quyển "kinh thánh" của bà nội tôi tôi còn nhớ bà từng nói rằng chồng bà (Booth) là "công cụ của người khác(3). "Kỵ sĩ rạp xiếc" và các thế lực tài chính New York rốt cuộc có mối quan hệ như thế nào? Có bao nhiêu người trong chính phủ của Lincoln đã tham gia vào âm mưu ám sát Lincoln? Tại sao các nghiên cứu về cái chết của Lincoln trong suốt thời gian dài luôn lạc hướng như vậy? Cái chết của Lincoln cũng giống với cái chết của Kennedy 100 năm sau đó, đều là sự phối hợp mang tính tổ chức trên quy mô lớn, mọi chứng cứ đều bị bịt đầu mối, mọi sự điều tra đều bị đánh lạc hướng một cách hệ thống, chân tướng của sự việc luôn được che đậy bởi một màn sương lịch sử dày đặc Muốn hiểu được động cơ và mưu đồ thực sự đằng sau việc Lincoln bị sát hại, chúng ta cần phải tìm hiểu sâu hơn những cuộc đối đầu trong nỗ lực khống chế quyền phát hành tiền tệ của quốc gia này suốt quá trình lập quốc của Mỹ.
 

2. Quyền phát hành tiền tệ và chiến tranh độc lập của nước Mỹ

Trong các cuốn sách giáo khoa lịch sử viết về nguyên do của cuộc chiến tranh độc lập ở Mỹ có rất nhiều điều giá trị vừa toàn diện lại vừa trừu tượng được đem ra phân tích và trình bày. Nhưng ở đây, chúng ta sẽ nhìn từ một góc độ khác để tìm hiểu sâu hơn bối cảnh tài chính cũng như vai trò hạt nhân của nó trong cuộc cách mạng này.

Đa số những người đến Mỹ mưu sinh sớm nhất chính là những cùng dân hết sức nghèo khổ. Trong cuộc hành trình của mình đến vùng đất mới, ngoài những hành lý đơn giản đem theo, hầu như họ chẳng có tài sản đáng giá hay tiền bạc gì. Thời đó, ở miền bắc Mỹ người ta vẫn chưa khám phá ra những mỏ vàng bạc lớn như sau này, cho nên nguồn tiền tệ lưa thông trên thị trường cực kỳ thiếu hụt. Thêm vào đó là tỉ lệ nhập siêu của Anh quốc đã khiến cho một lượng lớn tiền vàng bạc chảy về quốc gia của xứ sở sương mù này, và điều đó càng làm tăng thêm tình trạng thâm hụt lượng tiền lưu thông(4). Phần lớn hàng hoá và dịch vụ do những người dân di cư mới của miền Bắc Mỹ làm ra từ sự lao động khổ nhọc đã không thể được trao đổi hiệu quả do thâm hụt lượng tiền lưu thông, từ đó đã gây cản trở nghiêm trọng đến bước phát triển của nền kinh tế. Để ứng phó với vấn đề nan giải này, người ta buộc phải sử dụng các loại tiền tệ thay thế khác để tiến hành mua bán hàng hoá. Chẳng hạn, các hàng hoá được chấp nhận với mức độ cao như da và lông động vật, vỏ ốc, thuốc lá, gạo, lúa mạch, ngô được sử dụng như một loại tiền. Chỉ riêng ở miền Bắc Carolina, từ năm 1715 đã có hơn 17 loại hàng hoá được dùng như tiền tệ chính thức (Legal Tender), chính phủ và người dân có thể dùng những hàng hoá này để tiến hành các hoạt động giao dịch như đóng thuế, trả nợ, mua bán hàng hoá. Khi đó tất cả những loại tiền tệ thay thế này đều lấy đồng bảng Anh làm tiêu chuẩn tính toán. Trong hoạt động thực tế, do giá thành, quy cách, mức độ chấp nhận và tính chất có thể lưu giữ lâu của các loại hàng hoá này khác nhau, nên việc đo lường theo tiêu chuẩn cũng trở nên khó khăn. Ở mức độ nào đó, chúng đã cứu vãn được tình trạng thâm hụt tiền lưu thông đang cấp bách, nhưng nó cũng đã tạo nên tình trạng "thắt cổ chai" cho sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá(5).

Sự thiếu hụt tiền kim loại trong thời gian dài và sự bất tiện trong việc sử dụng các loại tiền hiện vật thay thế đã thúc đẩy chính phủ thoát ra khỏi lối tư duy truyền thống để bắt đầu một thử nghiệm hoàn toàn mới: dùng loại tiền giấy có tên là Colonial Scrip để in tiền - loại tiền chuẩn được pháp luật quy định thống nhất. Sự khác biệt lớn nhất giữa loại tiền giấy này so với chi phiếu ngân hàng đang lưa hành ở châu Âu chính là nó không có bất cứ khoản hiện vật vàng hay bạc nào bảo đảm mà chỉ là một loại tiền tín dụng chính phủ. Mọi người trong xã hội đều cần phải đóng thuế cho chính phủ, mà chỉ cần tiếp nhận loại tiền giấy này như bằng chứng của việc nộp thuế thì chính phủ đã có đầy đủ các yếu tố cơ bản để đưa loại tiền giấy này vào lưu thông trên thị trường.

Loại tiền mới này quả nhiên đã thúc đẩy sự phát tiền nhanh chóng của nền kinh tế xã hội, các giao dịch hàng hoá cũng ngày càng trở nên nhộn nhịp.

Lúc này, Adam Smith của nước Anh cũng đã chú ý đến sự thể nghiệm tiền tệ mới này của chính phủ thuộc địa ở Bấc Mỹ, và ông hiểu khá rõ vai trò kích thích to lớn đối với thương mại của loại tiền giấy này, đặc biệt là đối với khu vực bắc Mỹ đang thiếu hụt tiền kim loại. Ông cho rằng: "Việc mua bán trên cơ sở tín dụng khiến cho các thương gia có thể định kỳ kết toán số dư tín dụng giữa các bên theo mỗi tháng hoặc mỗi năm, và điều này đã giảm thiểu sự bất tiện trong giao dịch. Một hệ thống tiền giấy được quản lý tốt không những tạo ra sự thuận tiện trong sử dụng mà còn có thể có rất nhiều ưu thế trong một số tình huống nào đó"(6).

Nhưng một loại tiền tệ không có thế chấp là kẻ thù tự nhiên của các ngân hàng, bởi vì nếu không có các khoản vay của chính phủ làm thế chấp thì chính phủ cũng không cần phải vay các khoản tiền kim loại vốn rất thiếu hụt thời bấy giờ, và như vậy, quả cân lớn nhất trên tay của các ngân hàng trong chốc lát cũng mất đi uy lực.

Năm 1763, Benjamin Franklin vi hành đến nước Anh. Khi được vị chủ tịch của Ngân hàng Anh hỏi về nguyên nhân phát triển thịnh vượng của thuộc địa ở châu lục mới, Franklin đã trả lời rằng: "Điều này rất đơn giản. Ở đất thuộc địa, chúng tôi phát hành tiền tệ của riêng mình, gọi là "chứng chỉ thuộc địa". Chúng tôi căn cứ vào nhu cầu của thương nghiệp và công nghiệp để phát hành một lượng tiền tệ cân đối, như vậy, sản phẩm rất dễ dàng chuyển từ tay người sản xuất đến tay người tiêu dùng. Dùng phương thức này, chúng tôi tạo ra loại tiền giấy của riêng mình, đồng thời bảo đảm sức mua của nó, và chính phủ của chúng tôi không cần phải trả lợi tức cho bất kỳ ai"(7).

Loại tiền mới này tất nhiên sẽ giúp cho thuộc địa châu Mỹ thoát ly khỏi sự khống chế của Ngân hàng Anh.

Các ngân hàng Anh tỏ ra phẫn nộ và bắt tay nhau hành động. Dưới sự khống chế của các nhà tài phiệt ngân hàng, vào năm 1764, Nghị viện Anh đã thông qua "Đạo luật tiền tệ" (Currency Act), theo đó, Nghị viện nghiêm cấm các bang trong thuộc địa châu Mỹ in ấn và phát hành tiền giấy của riêng mình, đồng thời yêu cầu chính phủ các nơi này phải sử dụng toàn bộ vàng và bạc để đóng những khoản thuế cho chính phủ Anh. Franklin đã nhận xét một cách đau đớn về hậu quả kinh tế nghiêm trọng do đạo luật này mang lại cho các bang ở xứ thuộc địa như sau:
"Chỉ trong một năm, tình hình (thuộc địa) đã hoàn toàn đảo ngược, thời kỳ phồn thịnh đã kết thúc, kinh tế suy thoái nghiêm trọng đến mức từ đường phố cho đến bến cảng đều tràn ngập những đám người thất nghiệp".

"Nếu như Ngân hàng Anh không tước đoạt quyền phát hành tiền tệ của xứ thuộc địa thì người dân của xứ này sẽ vui vẻ đóng các khoản thuế trà và các sản phẩm khác. Đạo luật này đã gây nên tình trạng thất nghiệp và sự bất mãn. Xứ thuộc địa không thể phát hành được tiền tệ của mình, từ đó sẽ không thể thoát khỏi sự khống chế của Vua George III và Ngân hàng thế giới một cách vĩnh viễn. Và nó trở thành nguyên nhân chủ yếu gây ra cuộc chiến tranh độc lập ở Mỹ"(9). Những người đặt nền móng xây dựng nên Hợp chủng quốc Hoa Kỳ nhận thức được sự khống chế của Ngân hàng Anh đối với nền chính trị Anh cũng như sự bất công đối với người dân. Người hoàn thành bản "Tuyên ngôn Độc lập" Mỹ nổi tiếng khi chỉ mới 33 tuổi chính là Thomas Jefferson - tổng thống thứ ba của nước Mỹ - với một câu cảnh báo người đời rằng:

Nếu cuối cùng người dân Mỹ để cho ngân hàng tư nhân khống chế được sự phát hành tiền tệ của quốc gia thì những ngân hàng này trước hết sẽ thông qua việc tăng lạm phát tiền tệ, sau đó thông qua việc thắt chặt tiền tệ để tước đoạt tài sản của người dân, cho đến một ngày, khi con cái của họ thức tỉnh, thì họ đã mất đi nhà cửa vườn tược của mình và miền đất mà cha ông họ đã từng khẩn hoang khai phá(10).

Sau hơn 200 năm khi lắng nghe câu nói này của Jefferson được phát ngôn vào năm 1791, người ta vẫn không khỏi kinh ngạc trước sự chính xác đến kinh người trong những lời nói đó. Ngày nay, các ngân hàng tư nhân quả nhiên đã phát hành hơn 97% lượng tiền của Mỹ, người dân Mỹ quả nhiên cũng mắc nợ ngân hàng với khoản tiền lên đến con số 44.000 tỉ đô-la Mỹ. Và có lẽ, một ngày nào đó khi tỉnh dậy, họ sẽ thấy rằng mình đã mất đi nhà cửa vườn tược và tài sản, giống như những gì đã từng xảy ra vào năm 1929.

Khi xem xét kỹ lịch sử và tương lai, những người dẫn đường vĩ đại của Hoa Kỳ đã viết ra một cách rõ ràng trong mục 8 chương 1 Hiến pháp của nước Mỹ rằng: "Quốc hội có quyền in và quy định giá trị của đồng tiền quốc gia"(11).
 

3. Chiến dịch thứ nhất của Ngân hàng quốc tế: Ngân hàng đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1791 - 1811)

Tôi tin chắc rằng, sự de doạ của tổ chức ngân hàng đối với tự do của chúng ta còn nghiêm trọng hơn uy lực quân sự của kẻ thù. Họ đã tạo ra một tầng lớp quý tộc rủng rỉnh tiền bạc và coi thường chính phủ. Quyền phát hành tiền tệ phải được đoạt lại từ tay ngân hàng, nó phải thuộc về những người chủ thực sự của nó - nhân dân(12).
Thomas Jefferson 1802.
Alexander Hamilton là một nhân vật có tầm ảnh hưởng quan trọng trong mối quan hệ mật thiết. với gia tộc Rothschild. Sinh ra ở quần đảo Tây Ấn Độ thuộc Anh, Hamilton đến Mỹ với tên tuổi, danh tính và nơi xuất thân được giấu kín, sau đó kết hôn với con gái một gia đình giàu có ở New York.
Và theo những biên lai chuyển khoản còn lưa trữ ở Bảo tàng Anh, chúng ta có thể thấy rằng, Hamilton đã từng tiếp nhận sự trợ giúp của dòng họ Rothschild(13). Năm 1789, Hamilton đã được tổng thống Washington bổ nhiệm làm Bộ trưởng thứ nhất Bộ tài chính, chịu trách nhiệm về hệ thống ngân hàng trung ương Mỹ. Năm 1790, đối mặt với những khó khăn kinh tế và khủng hoảng nợ nần sau cuộc chiến tranh độc lập, Hamilton kiên quyết đề nghị Quốc hội thành lập một ngân hàng trung ương tư nhân kiểu như Ngân hàng Anh để phụ trách hoàn toàn việc phát hành tiền tệ. Theo lập luận của ông ta, với trụ sở đặt tại Philadelphia, Ngân hàng trung ương tư nhân sẽ cho xây dựng chi nhánh của mình tại các nơi, tiền và nguồn thuế của chính phủ cần phải đặt trong hệ thống của ngân hàng này, ngân hàng này phụ trách việc phát hành tiền tệ quốc gia để thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế, cho vay và thu lợi nhuận từ chính phủ Mỹ. Giá trị của ngân hàng này là 10 triệu đô-la Mỹ, trong đó tư nhân nầm giữ 80% cổ phần, 20% còn lại thuộc về chính phủ Mỹ. Cổ đông bầu ra 20 người trong số 25 người của hội đồng quản trị, 5 người còn lại do chính phủ bổ nhiệm.
Hamilton đại diện cho lợi ích của giai cấp thống trị tinh anh Hoa Kỳ. Ông ta từng chỉ ra rằng, "mọi xã hội đều phân chia thành đa số và thiểu số. Thiểu số xuất thân tử các gia đình danh gia vọng tộc, còn đa số chính là dân đen. Trước những rối loạn và biến động, nhóm đa số thường rất ít khả năng đưa ra được sự phán đoán và quyết định chính xác".
Jefferson đại diện cho lợi ích của nhân dân. Đối với quan điểm của Hamilton, câu trả lời của ông là chúng tôi cho rằng chân lý sau đây là không cần phải chứng minh:
"Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể tước đoạt được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Liên quan đến vấn đề chế độ ngân hàng trung ương tư nhân, cả hai bên đều chĩa mũi nhọn công kích vào nhau.
Hamilton cho rằng "nếu như không đem lợi ích và của cải của những cá nhân có tiền trong xã hội tập hợp lại với nhau thì xã hội này không thể thành công"(14). Công trái quốc gia, nếu không phải là quá nhiều, thì cũng phải là hạnh phúc của quốc gia chúng ta"(15).
Jefferson phản pháo rằng "Sự đe doạ của một tổ chức ngân hàng đối với tự do của chúng ta còn nghiêm trọng hơn uy lực quân sự của kẻ thù"(16). "Chúng ta vĩnh viễn không thể chấp nhận việc cho phép giai cấp cầm quyền tăng thêm nợ trên đầu trên cổ nhân dân"(17).
Tháng 12 năm 1791, khi được giao cho Quốc hội thảo luận, ngay lập tức phương án của Hamilton đã dẫn đến sự tranh luận gay gắt chưa từng có. Cuối cùng, phương án này đã được thượng nghị viện đã thông qua với đa số phiếu thuận, và nó cũng vượt qua ải hạ nghị viện với số phiếu 39/20. Lúc này, tổng thống Washington đang trong tình trạng phải xử lý khủng hoảng nợ nghiêm trọng và đã bị đẩy vào thế phân vân cực độ. Ông đã hỏi ý kiến Jefferson và Madison - Bộ trưởng ngoại giao của Hoa Kỳ thời đó. Những người này đã chỉ rõ ràng rằng, đề án này xung đột với hiến pháp. Hiến pháp trao quyền cho Quốc hội phát hành tiền tệ, nhưng Quốc hội không được quyền phát hành tiền tệ cho bất cứ ngân hàng tư nhân nào. Hiển nhiên, những phân tích này đã tác động mạnh tới tổng thống đến nỗi ông ta đã quyết tâm phủ nhận pháp lệnh này đến cùng.
Sau khi biết được tin tức này, với cương vị Bộ trưởng tài chính, Hamilton lập tức thuyết phục Washington rằng, nếu không thành lập ngân hàng trung ương để nhận sự đầu tư của nước ngoài đổ vào thì chính phủ sẽ sụp đổ rất nhanh.
Cuối cùng, những nguy cơ trước mắt đã áp đảo những suy nghĩ lâu dài cho tương lai. Ngày 25 tháng 2 năm 1792, tổng thống Washington đã đặt bút ký trao quyền thành lập Ngân hàng trung ương thứ nhất của Mỹ với thời gian hiệu lực trong 20 năm(18).
Các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế cuối cùng đã giành được thắng lợi quan trọng. Đến năm 1811, tư bản ngoại quốc đã chiếm được 7 triệu trong tổng số 10 triệu cổ phần gốc, Ngân hàng Anh và Nathan Rothschild trở thành cổ đông chủ yếu của Ngân hàng trung ương Mỹ - Ngân hàng thứ nhất của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (The First Bank of the United States)(19).
Hamilton cuối cùng trở nên vô cùng giàu có. Sau này, Ngân hàng thứ nhất sáp nhập vào công ty Manhattan New York do Lan Bow thành lập để trở thành Ngân hàng thứ nhất của phố Wall. Năm 1955, nó được sáp nhập với Chase Bank của Rockefeller và trở thành ngân hàng Chase Manhattan Bank.
Việc chính phủ tỏ rõ khát vọng cực độ đối với tiền tài hoàn toàn phù hợp với mong đợi của ngân hàng trung ương tư nhân - ngân hàng đang nóng lòng trông chờ chính phủ vay nợ. Chỉ trong vòng năm năm ngắn ngủi kể từ khi ngân hàng trung ương thành lập (1791 - 1796), số nợ vay của chính phủ Mỹ đã tăng thêm 8,2 triệu đô-la.
Năm 1798, Jetferson đã nói một cách đầy hối tiếc rằng:
"Tôi thật sự hy vọng chúng ta có thể sửa chữa, chỉnh sửa thêm cho bản hiến pháp, loại bỏ quyền vay nợ của chính phủ"(20).
Sau khi trúng cử tổng thống khoá thứ ba (1801 - 1809), Jefferson đã nỗ lực không ngừng hòng phế bỏ Ngân hàng thứ nhất của Mỹ, và đến khi hoạt động của ngân hàng sắp mãn hạn vào năm 1811 thì mâu thuẫn giữa thượng nghị viện và hạ nghị viện cũng đã lên đến mức cực điểm. Hạ nghị viện đã phủ quyết đề án kéo dài thời hạn kinh doanh của ngân hàng với 65 phiếu thuận và 64 phiếu chống, còn thượng nghị viện thì ở thế giằng co 17/17. Lần này, phó tổng thống đã phá vỡ thế bế tắc bằng một phiếu phủ quyết quan trọng và một quyết định được thông qua ngày 3 tháng 3 năm 1811, theo đó, Ngân hàng thứ nhất của Mỹ phải đóng cửa(21). Lúc này, Nathan Rothschild đang trấn giữ ở London, khi hay tin đã nổi trận lôi đình. Ông ta đe doạ rằng: "Hoặc là ngân hàng (ngân hàng thứ nhất Mỹ) được quyền kéo dài thời hạn kinh doanh, hoặc là nước Mỹ sẽ phải đối mặt với một cuộc chiến tranh tai hoạ nhất". Nhưng đáp lại lời thách thức ấy của Nathan, chính phủ Mỹ vẫn không hề đưa ra bất cứ hành động nào. Nathan lập tức đáp trả: "Hãy dạy cho những người Mỹ vô lý này một bài học, hãy đưa chúng trở về thời kỳ thuộc địa".

Kết quả là mấy tháng sau, cuộc chiến tranh năm 1812 giữa Anh và Mỹ đã nổ ra. Cuộc chiến đã kéo dài suốt ba năm, và mục đích của Rothschild là hết sức rõ ràng. Dòng họ này phải đánh cho đến khi những khoản nợ của chính phủ Mỹ chất cao như núi, và chính phủ Mỹ rốt cuộc không thể không đầu hàng, phải nhượng bộ để gia tộc này được tiếp tục chi phối ngân hàng trung ương. Kết quả là khoản nợ của chính phủ Mỹ đã tăng vọt từ 45 triệu đô-la lên đến 127 triệu đô-la, để rồi cuối cùng, vào năm 1815, chính phủ Mỹ cũng đã phải chịu khuất phục. Ngày 5 tháng 12 năm 1815, tổng thống Madison đã đề xuất việc thành lập Ngân hàng trung ương thứ hai. Kết quả là Ngân hàng Hoa Kỳ (The Bank of the United States) đã được khai sinh vào năm 1816 (1816 - 1832).
 

4. Sự trở lại của Ngân hàng quốc tế (1816 - 1832)

Sự chi phối của các cơ cấu ngân hàng đối với ý thức nhân dân tất yếu sẽ bị phá vỡ, nếu không thì sự chi phối này sẽ phá vỡ đất nước chúng ta(22).
Thư của Jefferson gửi cho Monroe (Tổng thống thứ 5 của Hoa Kỳ) năm 1815.
Ngân hàng thứ hai của Mỹ được cấp phép kinh doanh từ những năm 20 với tổng số vốn lên đến 35 triệu đô-la Mỹ, trong đó 80% vốn do tư nhân chiếm giữ, 20% vốn còn lại thuộc về chính phủ(23). và cũng giống như cơ cấu Ngân hàng thứ nhất, Rothschild là người nắm giữ quyền lực của Ngân hàng thứ hai.
Năm 1828, Andrew Jackson tham gia tranh cử tổng thống. Trong một lần phát biểu trước các ngân hàng, ông đã không ngần ngại mà nói rằng:
"Các ngài là một lũ rắn độc. Nhân danh Chúa, nhất định tôi sẽ quét sạch các ngài. Nếu như người dân biết được sự khuất tất trong hệ thống liền tệ và hệ thống ngân hàng của chúng tôi thì ngay trước sáng ngày mai sẽ nổ ra cuộc cách mạng".
Khi được bầu làm tổng thống năm 1828, Andrew Jackson quyết tâm phế bỏ Ngân hàng thứ hai. Ông chỉ ra rằng:
"Nếu Quốc hội được hiến pháp trao quyền phát hành tiền tệ, hãy để cho Quốc hội thực thi quyền của mình và không được để quyền đó rơi vào tay bất cứ cá nhân hay công ty nào".
Trong tổng số 11.000 nhân viên đang làm việc cho chính phủ liên bang, ông đã cho sa thải hơn 2.000 nhân viên có liên quan đến ngân hàng.
Năm 1832, Jackson tham gia tranh cử nhiệm kỳ thứ hai. Nếu ông thắng cử, thì thời gian hoạt động của ngân hàng thứ hai sẽ kết thúc trong nhiệm kỳ tiếp theo của ông vào năm 1836. Mọi người đều biết cảm tưởng của tổng thống đối với ngân hàng thứ hai. Và để tránh tình trạng "đêm dài lắm mộng", ngân hàng đã nghĩ cách để có được giấy phép kinh doanh đặc biệt kéo dài thêm 20 năm nữa trước khi diễn ra cuộc bầu cử tổng thống. Đồng thời với việc này, các ngân hàng cũng đã không tiếc chi ra khoản tiền 3 triệu đô-la để ủng hộ cho quỹ tranh cử của Henry Clay - đối thủ của tổng thống Jackson - trong khi khẩu hiệu tranh cử của Jackson là "Có Jackson thì không có ngân hàng". Cuối cùng, Jackson đã giành thắng lợi với số phiếu áp đảo.

Đề án kéo dài thời hạn giấy phép kinh doanh ngân hàng đã được thông qua tại thượng nghị viện với số phiếu 28/20, và vượt qua cửa hạ nghị viện với số phiếu 167/85(24). Ỷ vào sự hậu thuẫn của đế quốc tài chính Rothschild hùng mạnh ở châu Âu, Biddle - Chủ tịch Ngân hàng thứ hai - chẳng coi tổng thống ra gì. Trong khi thiên hạ bàn tán xôn xao rằng đề án kéo dài thời hạn kinh doanh của ngân hàng sẽ bị Jackson phủ quyết, Biddle đã lên giọng tuyên bố "Nếu ông ta phủ quyết đề án, thì tôi sẽ phủ quyết ông ta".

Rốt cục, Jackson đã phủ quyết không chút do dự đối với đề án kéo dài thời hạn kinh doanh của Ngân hàng thứ hai. Ông còn lệnh cho Bộ trưởng tài chính lập tức yêu cầu các cơ quan dự trữ của chính phủ rút ngay các khoản tiền tiết kiệm từ tài khoản của ngân hàng thứ hai, chuyển vào các tài khoản của ngân hàng ở các bang. Ngày 8 tháng 1 năm 1835, tổng thống Jackson đã trả xong khoản nợ cuối cùng của đất nước. Đây là lần duy nhất trong lịch sử nước Mỹ, chính phủ đã giảm khoản nợ quốc gia xuống mức 0, đồng thời còn tạo ra một khoản thặng dư trị giá 35 triệu đô-la Mỹ.
Nhận xét về thành tựu vĩ đại này, các nhà sử học cho rằng "đây là thành công xán lạn nhất đồng thời cũng là sự cống hiến quan trọng nhất mà tổng thống đã làm cho đất nước này".

Tờ Boston Post đã ví việc này với sự kiện Chúa đuổi người cho vay tiền ra khỏi thánh đường vậy.
 

5. "Ngân hàng muốn giết chết tôi, nhưng tôi sẽ giết chết ngân hàng"

Ngày 30 tháng 1 năm 1835, tổng thống Andrew Jackson đến Capital Hill tham dự tang lễ của một nghị sĩ Quốc hội. Với hai khẩu súng đã được nạp đầy đạn giấu trong túi áo khoác, Richard Laurence - một tay thợ sơn thất nghiệp đến từ Anh - đã lẻn theo tổng thống Andrew Jackson. Khi tổng thống tiến vào phòng nghi thức tang lễ, Laurence vẫn còn cách tổng thống một khoảng khá xa. Hắn nhẫn nại chờ thời cơ tốt hơn để hành động. Sau khi nghi thức kết thúc, hắn nấp vào giữa hai hàng cột, nơi mà hắn biết chắc chắn tổng thống phải đi qua. Vừa đúng lúc tổng thống bước đến, Laurence từ phía sau cột xông ra, chĩa súng vào tổng thống và bóp cò. Nhưng rất may, viên đạn bị lép, vì thế Laurence đã không thể hạ sát được tổng thống. Khi đó, mọi người xung quanh đều hết sức hoảng hốt. Nhưng vị tổng thống 67 tuổi này vẫn tỏ ra bình tĩnh đối mặt với tên sát thủ, và theo bản năng, ông đưa cây gậy lên để tự vệ. Liền đó, tên sát thủ lại tiếp tục móc khẩu súng thứ hai ra và bóp cò, nhưng đạn vẫn bị lép. Đây là tổng thống đầu tiên của Mỹ bị ám sát, và thật may mắn là ông đã thoát chết. Thông thường, tỉ lệ cả hai khẩu súng lép đạn chỉ là 1/125.000 mà thôi.

Tên sát nhân 32 tuổi này tự xưng là người thừa kế hợp pháp của quốc vương Anh, và hắn cho rằng, tổng thống Mỹ đã giết chết cha hắn, lại còn cự tuyệt để hấn có được một khoản tiền lớn. Sau đó, tại toà án, chỉ sau năm phút thẩm tra, toà đã phán quyết là tên sát nhân này mắc bệnh tâm thần, nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hắn.
Từ đó về sau, bệnh tâm thần trở thành cái cớ thích hợp nhất để các sát thủ chạy tội.

Ngày 8 tháng 1 năm 1835, tổng thống Jackson đã trả xong khoản nợ cuối cùng của đất nước. Cuối tháng Giêng, tức là ngày 30 tháng 1, vụ ám sát tổng thống đã xảy ra. Liên quan đến tên hung thủ Richard Laurence, trong cuốn sách của mình, Griffin đã viết rằng: "Tên sát thủ này hoặc là bị bệnh tâm thần thật, hoặc là giả bệnh để hòng thoát khỏi sự trừng trị nghiêm minh của pháp luật. Sau này, hắn đã khua môi múa mép nói với người khác rằng hắn có mối quan hệ mật thiết với những người có quyền thế ở châu Âu, và hắn đã được hứa là nếu có bị bắt thì sẽ được bảo vệ"(25).

Ngày 8 tháng 6 năm 1845, tổng thống Jackson qua đời. Trên bia mộ của ông chỉ lưu lại một câu nói duy nhất, "Ta đã giết được ngân hàng".
Ngân hàng Trung ương Mỹ lại một lần nữa bị vô hiệu hoá, dẫn đến sự trả đũa nghiêm khắc của phía Anh. Nước Anh lập tức đình chỉ các khoản cho vay đối với Mỹ, trong đó có chiêu tận thu lượng cung ứng tiền vàng của nước Mỹ.

Dưới sự vận hành và điều khiển của gia tộc Rothschild, nền tài chính của Anh khi đó đã có được lượng lưu thông tiền vàng với quy mô lớn nhất. Thông qua các khoản tiền cho vay và sự vận hành của Ngân hàng trung ương Mỹ, nền tài chính Anh đã khống chế hoàn toàn việc cung ứng tiền tệ của Mỹ.
Sau khi đơn xin kéo dài thời hạn của Ngân hàng thứ hai bị tổng thống phủ quyết, Chủ tịch Ngân hàng thứ hai đã khởi động việc "phủ quyết" đối với tổng thống. Ngân hàng thứ hai tuyên bố lập tức thu hồi các khoản đã cho vay, đình chỉ tất cả các khoản vay mới. Các ngân hàng chủ yếu ở châu Âu do dòng họ Rothschild thao túng cũng đồng thời khống chế vòng quay lưu chuyển tiền tệ của nước Mỹ, đẩy nước này rơi vào tình thế sụt giảm lượng lưu thông tiền tệ "do con người gây ra" một cách nghiêm trọng, cuối cùng dẫn đến "cuộc khủng hoảng năm 1837", kinh tế Mỹ rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng trong suốt hơn 5 năm với sức phá hoại lớn chưa từng thấy, gây nên một thời kỳ điêu tàn và kéo dài mãi đến năm 1929.
"Cuộc khủng hoảng năm 1857" tiếp sau "cuộc khủng khoảng năm 1837", rồi cuộc khủng hoảng năm 1907 một lần nữa đã xác nhận câu nói của Rothschild: "Chỉ cần khống chế việc phát hành tiền tệ của một quốc gia thì tôi không cần phải quan tâm rằng ai là kẻ đã đặt ra pháp luật".
 

6. Chiến tuyến mới: "Hệ thống tài chính độc lập"

Năm 1837, Martin Van Buren - người kế nhiệm được tổng thống Jackson ủng hộ - tiếp quản Nhà trắng. Thách thức lớn nhất của Buren là làm thế nào để khắc phục nguy cơ khủng hoảng nghiêm trọng do nguồn cung ứng tiền bị Ngân hàng quốc tế thắt chặt. Sách lược tiên phong của ông là xây dựng "hệ thống tài chính độc lập" (Independent Treasury System), rút toàn bộ tiền tệ do Bộ tài chính kiểm soát khỏi hệ thống ngân hàng tư nhân, rồi gửi vào hệ thống của mình ở Bộ tài chính. Các nhà sử học gọi hành động này là "cuộc ly hôn giữa tài chính và ngân hàng".
Khởi nguồn của "hệ thống tài chính độc lập" là khi tổng thống Jackson phủ quyết việc kéo dài thời hạn kinh doanh của Ngân hàng thứ hai, đồng thời ra lệnh rút toàn bộ các khoản tiền của chính phủ khỏi hệ thống ngân hàng này, chuyển đến gửi ở ngân hàng của các bang. Ai ngờ, các nhà ngân hàng dùng tiền của chính phủ làm dự trữ, sau đó phát hành tín dụng với số lượng lớn để đầu cơ. Đây là một nguyên nhân khác dẫn đến "cuộc khủng hoảng năm 1837". Nguồn tiền của chính phủ do Martin Van Buren đề xuất phải làm sao được giải phóng khỏi hệ thống tài chính nhằm bảo vệ tiền vốn của chính phủ đồng thời cân nhắc khả năng ngân hàng dùng tiền thuế của người dân để phát hành tín dụng với số lượng lớn tạo nên sự mất cân bằng trong nền kinh tế.
Một đặc điểm khác của "hệ thống tài chính độc lập "là tất cả các khoản tiền nhập vào hệ thống tài chính cần phải được thể hiện dưới dạng vàng bạc".
Như vậy, chính phủ đã có được một điểm tựa để điều tiết khống chế đối với lượng cung ứng tiền vàng của quốc gia nhằm khống chế cuộc xung đột giữa ngân hàng châu Âu đối với việc phát hành tiền tệ của Mỹ. Cách suy nghĩ này có thể nói là một điệu kế nếu nhìn từ góc độ lâu dài, nhưng nếu xét về ngắn hạn thì lại có thể châm ngòi nổ cho quả bom rủi ro tín dụng của rất nhiều các ngân hàng, chẳng khác nào đổ thêm dầu vào lửa trong cuộc xung đột với ngân hàng thứ hai của Mỹ, và khủng hoảng sẽ xảy ra đến mức không thể khống chế được.
Trong quá trình này, Henry Clay là một nhân vật hết sức quan trọng. Ông là người kế thừa quan trọng ý tưởng thành lập Ngân hàng trung ương tư nhân của Hamilton và là nhân vật được các nhà ngân hàng mến mộ. Ông là người có tài ăn nói, lối suy nghĩ chặt chẽ và có sức lôi cuốn. Ông đã tụ hội được bên mình một nhóm các nghị sĩ ủng hộ ngân hàng và được các ngân hàng ủng hộ. Ông đã thành lập đảng Whig (tiền thân của đảng tự do Anh) - một đảng kiên quyết phản đối chính sách ngân hàng của tổng thống Jackson - và đã dồn sức vào việc khôi phục lại chế độ Ngân hàng trung ương tư hữu.
Trong cuộc tranh cử tổng thống năm 1840, đảng Whig đã đề cử vị anh hùng chiến tranh William Henry Harrison, và do trong suy nghĩ của người dân có sự thay đổi về nguy cơ kinh tế, nên Harrison đã dễ dàng giành thắng lợi và trở thành tổng thống thứ 9 của nước Mỹ.
Với vai trò thủ lĩnh của đảng Whig, Henry Clay đã nhiều lần "chỉ đạo" Harrison phải điều hành nền chính trị như thế nào. Sau khi Harrison trớ thành tổng thống, mâu thuẫn giữa hai người ngày càng trở nên gay gắt.
Henry Clay đã triệu kiến "tổng thống sắp nhậm chức" đến nhà mình ở Lexington. Vì nghĩ đến đại cuộc nên Harrison đã nhẫn nhịn đến nhà Henry Clay, nhưng vì vấn đề ngân hàng quốc gia, chế độ tài chính độc lập và nhiều vấn đề khác nữa mà hai người đã gây gổ với nhau. Nguyên nhân là vì Henry Clay cho rằng ông ta có thể lấy thân phận "thái thượng hoàng" của mình để ra lệnh. Dù chưa được sự đồng ý của Harrison nhưng ông ta đã cho người chấp bút viết bài diễn văn nhậm chức thay tổng thống và đã bị Harrison từ chối, sau đó, Harrison còn đích thân viết một vài diễn văn nhậm chức dài hơn 8.000 từ. Văn kiện tóm lược lại đường lối tư tưởng trị nước của Harrison đã phản bác lại luận điệu ngân hàng trung ương tư nhân và phế bỏ đường lối chính sách tài chính độc lập do Henry Clay chủ trương, tạo nên một cú đánh thấu xương đối với lợi ích của ngân hàng(26).
Ngày 4 tháng 3 năm 1841 là một ngày rét mướt. Tổng thống Harrison đã đọc bài diễn văn nhậm chức của mình trong gió rét, và sau đó đã bị cảm lạnh. Đối với tổng thống Harrison, người một đời xông pha nơi trận mạc thì chuyện này cũng chẳng có gì lớn lao, nào ngờ bệnh tình của ông lại ngày càng trở nên trầm trọng khác thường, và đến ngày 4 tháng 4 thì tổng thống đã từ trần. Vị tổng thống minh mẫn hoạt bát vừa mới lên nhậm chức và đang chuẩn bị triển khai rất nhiều dự định lớn lao thì bỗng nhiên "đột tử". Dù thế nào thì đó cũng là một việc hết sức đáng ngờ. Một số nhà sử học cho rằng tổng thống đã bị đầu độc, có thể thời gian hạ độc là vào ngày 30 tháng 3, và sau 6 ngày thì tổng thống Harrison từ trần.
Mâu thuẫn giữa Ngân hàng trung ương tư nhân và hệ thống tài chính độc lập càng trở nên căng thẳng hơn kể từ sau cái chết của tổng thống Harrison. Trong năm 1841, Đảng Whig do Henry Clay chủ trì đã hai lần đề xuất phải khôi phục lại Ngân hàng trung ương tư nhân và phế bỏ chế độ tài chính độc lập. Kết quả cả hai lần đều bị người kế nhiệm của tổng thống Harrison là Phó tổng thống John Tyler phủ quyết. Henry Clay tức giận và xấu hổ đã ra lệnh khai trừ John Tyler ra khỏi Đảng Whig, kết quả là tổng thống John Tyler "may mắn" trở thành vị tổng thống "mồ côi" duy nhất trong lịch sử nước Mỹ bị khai trừ ra khỏi Đảng.
Đến năm 1849, sau khi trúng cử tổng thống, Zachary Tayler - một nhân vật khác của Đảng Whig - đã khôi phục lại hy vọng của Ngân hàng trung ương. Việc xây dựng một ngân hàng trung ương tư nhân theo mô hình của Ngân hàng Anh là mơ ước cao nhất của các ngân hàng, và nó có nghĩa rằng, cuối cùng thì ngân hàng cũng quyết định được số phận của quốc gia và nhân dân. Nhìn vào vết xe đổ trước đó của tổng thống Harrison, Tayler luôn tỏ ra hững hờ đối với vấn đề ngân hàng trung ương hết sức quan trọng này, tuy nhiên, ông cũng không cam tâm trở thành con rối trong tay Henry Clay. Nhà sử học Michael Holt đã cho rằng, tổng thống Tayler đã từng ngầm bày tỏ như thế này "Chủ ý xây dựng Ngân hàng trung ương đã được định đoạt, và đó không phải là vấn đề cần được tôi xem xét trong nhiệm kỳ của mình(27). Kết quả là, "cái đã được định đoạt" ở đây không phải là sự chú ý của Ngân hàng trung ương mà nhẩm vào bản thân tổng thống Taylor.

Ngày 4 tháng 7 năm 1850, tổng thống Tayler tham dự lễ quốc khánh được cử hành trước đài tưởng niệm Washington. Thời tiết hôm đó hết sức oi bức, Tayler đã uống một chút sữa đá và ăn thêm mấy quả anh đào, kết quả là ông bị đau bụng. Đến ngày 9 tháng 7 thì vị tổng thống khôi ngô vạm vỡ này cũng ra đi một cách thần bí.

Sự kiện đột tử thần bí vì những căn bệnh chẳng đâu vào đâu của cả hai vị tổng thống có xuất thân từ quân nhân này đương nhiên đã gây xôn xao dư luận. Còn giới sử học thì tranh luận về đề tài này trong hàng thế kỷ. Năm 1991, sau khi được sự đồng ý của người nhà tổng thống Tayler, thi thể của ông đã được khai quật lên. Người ta lấy mẫu móng tay và tóc của tổng thống đi xét nghiệm. Kết quả cho thấy, ông chết vì bị đầu độc. Đương nhiên, cơ quan điều tra đã nhanh chóng lấp liếm rằng, lượng đầu độc rất nhỏ không đủ để gây chết người, sau đó vội vàng kết thúc vụ điều tra. Cho đến ngày nay, chẳng ai biết được tại sao cơ thể tổng thống lại có những thứ độc tố đó.
 

7. Ngân hàng quốc tế ra tay tạo nên cuộc "khủng hoảng năm 1857"

Do Ngân hàng thứ hai của Mỹ đóng cửa năm 1836 nên các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đã đột ngột ra tay rút sạch toàn bộ lượng tiền tệ kim loại đang lưu thông ở nước Mỹ, tạo nên cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng diễn ra liên tục trong 5 năm ở quốc gia này. Mặc dù vào năm 1841, đại diện của các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đã từng hai lần thử khôi phục lại hệ thống ngân hàng trung ương tư nhân, nhưng cả hai lần đều thất bại, mối quan hệ giữa hai bên rơi vào trạng thái đóng băng, tình trạng siết chặt tiền tệ của Mỹ kéo dài mãi đến năm 1848 mới bất đầu được giải toả.
Nguyên nhân khiến cho tình hình chuyển biến tích cực tất nhiên không phải do các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế quá nhẹ tay mà là do vào năm 1848, nước Mỹ đã phát hiện mỏ vàng rất lớn: mỏ vàng San Francisco.
Lượng cung ứng vàng của Mỹ liên tục trong 9 năm kể từ năm 1848 đã tăng vọt chưa từng thấy. Chỉ riêng California đã sản xuất ra một lượng tiền vàng trị giá đến 5 tỉ đô-la Mỹ. Năm 1851, một mỏ vàng có trữ lượng lớn cũng được phát hiện ở Úc. Lượng cung ứng vàng trên phạm vi thế giới từ 144 triệu si-ling vào năm 1851 tăng vọt lên 376 triệu si-ling trong năm 1861. Và lưu lượng tiền thuộc kim nội địa của Mỹ từ 83 triệu đô-la trong năm 1840 tăng vọt lên 253 triệu đô-la trong năm 1860(28).
Việc phát hiện những mỏ vàng lớn ở Mỹ và Úc đã phá vỡ sự khống chế tuyệt đối của các nhà tài chính châu Âu đối với lượng cung ứng vàng thế giới. Chính phủ Mỹ thở phào nhẹ nhõm vì đã thoát được cảnh phải bị siết chặt về tiền tệ. Việc cung ứng tiền tệ với chất lượng tốt và số lượng nhiều đã làm tăng niềm tin cho thị trường, các ngân hàng bắt đầu bành trướng hoạt động tín dụng trên quy mô lớn. Cơ sở quan trọng nhất trong tài sản của nước Mỹ là rất nhiều ngành công nghiệp quan trọng của Mỹ như công nghiệp, khoáng sản, giao thông, cơ giới đều được khôi phục nhanh chóng trong giai đoạn hoàng kim này.

Thấy việc khống chế tài chính tỏ ra không còn hiệu quả, các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đã tung ra đối sách mới. Đó chính là chính sách khống chế tài chính và phân hoá chính trị.

Trước khi cuộc khủng hoảng kết thúc, các nhà tài phiệt ngân hàng đã bắt đầu ra tay thu mua của cải quý giá của dân chúng với giá rẻ mạt. Đến năm 1853, khi nền kinh tế Mỹ phất như diều gặp gió thì tư bản nước ngoài, đặc biệt là tư bản Anh đã sở hữu 46% trong tổng số công trái liên bang, 58% tổng công trái các bang, 26% tổng công trái ngành đường sắt Mỹ(29). Như vậy, một khi chế độ ngân hàng trung ương được yên vị thì nền kinh tế Mỹ cũng sẽ bị các nhà tài phiệt ngân hàng khống chế giống như các quốc gia châu Âu khác.

Các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế mở rộng hoạt động tín dụng, khiến nền kinh tế phát triển với tốc độ như bơm bong bóng để người dân và các doanh nghiệp khác ra sức tạo ra của cải, sau đó đạp gấp phanh tín dụng, khiến cho hầu hết các doanh nghiệp và người dân lâm vào cảnh phá sản, còn các ngân hàng lại được một phen bội thu. Quả nhiên, trong khi thấy mùa thu hoạch đã đến, các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế và các đại diện của họ ở Mỹ đã quơ tay siết chặt tín dụng, gây nên cuộc khủng hoảng năm 1857. Nhưng điều vượt ra ngoài dự kiến của họ là, thực lực của nền kinh tế Mỹ lúc này đã không còn như 20 năm trước nữa, cuộc khủng hoảng năm 1857 không thể làm chấn thương trầm trọng nền kinh tế Mỹ một lần nữa, mà nó chỉ kéo dài trong một năm thì nước Mỹ đã dập tắt được khủng hoảng.

Khi thấy thực lực của nước Mỹ ngày càng mạnh, tài chính ngày càng khó bị khống chế, các nhà tài phiệt ngân hàng quốc tế đặt ra nhiệm vụ trọng tâm cho mình: kích động nội chiến và chia cắt nước Mỹ.
 

8. Khởi nguồn cuộc nội chiến Mỹ: Thế lực tài chính quốc tế châu Âu

Không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc nội chiến chia tách nước Mỹ làm hai nửa liên bang có thực lực tương đối yếu đã được các thực tài chính châu Âu hoạch định từ rất sớm.
Bismarck - Thủ tướng Đức.
Lịch sử phát triển của nước Mỹ gắn liền với sự can thiệp và âm mưu của các thế lực quốc tế. Điều khiến người ta kinh ngạc nhất chính là sự thâm nhập và lật đổ của các thế lực tài chính quốc tế đối với nước Mỹ. Tuy nhiên, đây cũng chính là những điều ít được biết đến nhất.
Cuộc chiến tranh có quy mô lớn nhất xảy ra trên chính lãnh thổ của mình trong lịch sử của nước Mỹ chắc chắn thuộc về cuộc nội chiến Nam - Bắc. Cuộc chiến đổ máu kéo dài suốt bốn năm này đã lôi kéo 3 triệu người tham gia, chiếm 10% nhân khẩu của nước Mỹ, 600 nghìn người tử trận, vô số người tàn phế, một lượng của cải khổng lồ bị huỷ hoại trong ngọn lửa chiến tranh, và vết thương mà cuộc chiến này để lại cho người dân đến nay sau hơn 140 năm vẫn chưa được hoàn toàn khôi phục.

Ngày nay, những tranh luận liên quan đến nguyên nhân cuộc nội chiến Nam - Bắc phần lớn xoay quanh vấn đề đạo lý của cuộc chiến, tức là loại bỏ sự hiện hữu của chế độ nô lệ, đúng như Sydney E. Ahlstrom đã nói (nếu không có chế độ nô lệ thì sẽ không có chiến tranh. Nếu không có sự lên án đạo đức đối với chế độ nô lệ thì sẽ không có chiến tranh"(30).

Nhưng thực tế, liên quan đến chế độ nô lệ tại Mỹ trong thế kỷ 19, lợi ích kinh tế được xếp hàng thứ nhất, trong khi vấn đề đạo đức lại đứng hàng thứ hai. Trụ cột kinh tế miền Nam thời đó chính là nền sản xuất bông dệt vải và chế độ nô lệ, và nếu như phế bỏ chế độ nô lệ thì các chủ trang trại buộc phải trả công cho những người nô lệ ban đầu theo giá trị trường công lao động của người da trắng, và như vậy, toàn bộ sản nghiệp sẽ chịu hao tổn, kết cấu kinh tế xã hội sẽ sụp đổ. Nếu nói chiến tranh là sự kế tục của đấu tranh chính trị thì phía sau xung đột lợi ích chính trị chính là sự tính toán lợi ích kinh tế. Trên bề mặt của sự tính toán lợi ích kinh tế này nổi lên sự khác biệt về lợi ích kinh tế giữa hai miền Nam Bắc, nhưng bản chất của nó vẫn là sách lược chơi trò "chia để trị" của các thế lực tài chính quốc tế.

Bismarck - Thủ tướng Đức, người có dây mơ rễ má với dòng họ Rothschild - đã nói rất chính xác rằng "Không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc nội chiến chia tách nước Mỹ làm hai nửa liên bang có thực lực tương đối yếu đã được các thế lực tài chính châu Âu hoạch định từ rất sớm".
Thực chất, chính các nhà ngân hàng trục "London - Paris - Frankfurt" là những kẻ ném đá giấu tay sau cuộc chiến Nam - Bắc của Mỹ.
Để kích động cuộc nội chiến tại Mỹ, các nhà ngân hàng quốc tế đã tiến hành việc hoạch định lâu dài, cẩn trọng và chu toàn. Sau chiến tranh độc lập của Mỹ, nền công nghiệp dệt của nước Anh và các tầng lớp chủ nô ở miền Nam nước Mỹ dần dần xây dựng được mối quan hệ làm ăn mật thiết với nhau. Các nhà tài chính ở châu Âu đã nắm ngay lấy cơ hội này, thừa cơ bí mật phát triển một mạng lưới các nhân vật chủ chốt có thể kích động được cuộc xung đột Nam - Bắc trong tương lai. Ở miền nam thời đó, các đại diện đủ kiểu của các nhà tài chính Anh hiện diện khớp nơi, và cùng với các thế lực chính trị bản địa, họ tham gia hoạch địch các âm mưu, tạo ra đủ mọi loại tin tức cũng như dư luận hòng tách khỏi liên bang. Họ đã khéo léo lợi dụng sự xung đột lợi ích kinh tế về vấn đề chế độ nô lệ ở hai miền Nam - Bắc, không ngừng tạo ra căng thẳng, xung đột và làm cho vấn đề thêm trầm trọng so với bản chất, và cuối cùng đã thành công trong việc đẩy vấn đề chế độ nô lệ thành mâu thuẫn gay gắt không thể dung hoà như nước với lửa giữa hai miền.

Các ngân hàng quốc tế đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ còn chờ chiến tranh nổ ra là có thể vơ vét được những món lợi lớn. Trong quá trình kích động chiến tranh, chiêu thức mà họ quen dùng là "bắt cá hai tay", bất kể ai là kẻ chiến thắng.

Những khoản nợ kếch xù của chính phủ phải chi cho chiến tranh đều là bữa tiệc thịnh soạn nhất của các ngân hàng.

Mùa thu năm 1859, trong vai một người du lịch, nhà tài phiệt ngân hàng nổi tiếng nước Pháp Salomon de Rothschild từ Paris đến Mỹ. Ông là người điều phối chung mọi kế hoạch vốn có, đi lại giữa hai miền nam - bắc, tiếp xúc với các nhân vật quan trọng trong giới chính trị và giới tài chính Mỹ, đem mọi thông tin tình báo thu thập được chuyển về cho Nathaniel de Rothschild đang trấn giữ ở London. Trong cuộc hội đàm với các giới chức miền nam, ông đã công khai tuyên bố sẽ nỗ lực chi viện cho miền nam về mặt tài chính, đồng thời bày tỏ sẽ tận lực giúp miền nam độc lập nhằm có được sự thừa nhận của các quốc gia lớn ở châu Âu(31).
Đại diện ở miền bắc của ngân hàng quốc tế là August Belmont - một nhân vật hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng gốc Do Thái được mệnh danh là "vua của Đại lộ thứ năm" ở New York. Ông là đại diện của Ngân hàng Rothschild Frankfurt, cũng là người có quan hệ thân thích với dòng họ này.

Năm 1829, khi mới 15 tuổi, August đã bắt đầu kiếm sống trong lĩnh vực ngân hàng. Ông cũng đã bắt đầu làm việc cho Ngân hàng Rothschild ở Frankfurt đồng thời sớm bộc lộ được khả năng tài chính thiên phú của mình. Ông tinh thông các ngoại ngữ Đức, Anh, Pháp, Ý. Năm 1837, ông được phái đến New York. Nhờ mua vào một lượng lớn trái phiếu chính phủ, nên Belmont nhanh chóng trở thành nhân vật cấp cao của giới tài chính New York, và được tổng thống tín nhiệm bổ nhiệm vào vị trí cố vấn tài chính. Ông đại diện cho ngân hàng Rothschild ở Anh và Frankfurt đồng thời bày tỏ ý muốn ủng hộ tài chính cho tổng thống Lincoln ở miền bắc.

Để tăng áp lực lớn hơn về mặt quân sự đối với quân miền bắc, cuối năm 1861, nước Anh đã tăng thêm 8.000 binh lính đến Canada, sẵn sàng chuẩn bị ứng phó với sự tấn công của quân miền nam đồng thời uy hiếp chính phủ Lincoln ở biên giới phía Bắc. Năm 1862, liên quân Anh, Pháp và Tây Ban Nha đã đổ bộ vào cảng Mexico, hoàn thành đợt tập kết ở biên giới phía nam của nước Mỹ, khi cần thiết sẽ xâm nhập vào miền nam nước Mỹ và trực tiếp khai chiến với quân miền Bắc. Ngày 3 tháng 10 năm 1863, Yelet - vị tướng Pháp lại tăng thêm 30.000 quân, và chiếm lĩnh thành phố Mehico.

Khi chiến tranh mới nổ ra, đội quân miền nam đánh đâu thắng đó, các cánh quân của châu Âu như quân Pháp đã mạnh lại càng mạnh hơn, Lincoln đã rơi vào tình thế cực kỳ khó khăn. Các ngân hàng đã tính toán chính xác sự trống rỗng trong quốc khố của tổng thống Lincoln khi đó, và chẳng còn cơ hội nào tốt hơn để kiếm một khoản lợi kếch xù từ cuộc chiến tranh này. Kể từ khi cuộc chiến tranh với Anh kết thúc năm 1812, thu nhập quốc khố của nước Mỹ thâm hụt nhiều năm liền, và đến trước khi Lincoln lên nắm quyền, mọi khoản thâm hụt của chính phủ Mỹ đều được đem bán cho ngân hàng dưới hình thức công trái, rồi ngân hàng lại chuyển tiếp cho Ngân hàng Rothschild ở Anh và ngân hàng Paris (đây là một hình thức mua bán nợ chính phủ). Như vậy, chính phủ Mỹ phải chi trả lợi tức khá cao, và những khoản nợ tích luỹ nhiều năm như thế này đã tạo ra gánh nặng nợ nần cho chính phủ.

Các ngân hàng đã đề xuất ra một kế hoạch tài chính trọn gói và đưa ra điều kiện của mình. Khi nghe đến khoản lãi yêu cầu từ 24% đến 36% của các ngân hàng, tổng thống Lincoln đã mời ngay các ngân hàng ra khỏi cửa trong cơn tức giận bầm gan tím mật. Đây là một chiêu độc nhằm đẩy chính phủ Mỹ rơi vào cảnh phá sản hoàn toàn, và Lincoln biết rằng người dân Mỹ mãi mãi không thể trả hết khoản nợ hàng nghìn tỉ này.
 

9. Chính sách mới về tiền tệ của Lincoln

Không có tiền thì không thể tiến hành chiến tranh, mà nếu vay của ngân hàng quốc tế thì chẳng khác nào tự treo thòng lọng vào cổ mình. Lincoln nghĩ trăm phương ngàn kế để tìm phương án giải quyết. Lúc đó, Dick Taylor - một người bạn cũ của ông ở Chicago - đã đề xuất với Lincoln một ý tưởng: chính phủ tự phát hành tiền tệ!
"Việc yêu cầu Quốc hội thông qua đề án này cũng như vấn đề trao quyền cho Bộ tài chính ấn hành tiền tệ sẽ có đầy đủ hiệu lực pháp luật nhằm giúp chi trả lương bổng cho binh sĩ sau đó sẽ giúp ông giành được thắng lợi trong cuộc chiến mà ông tiến hành".
Trả lời câu hỏi của Lincoln về việc liệu người dân Mỹ cố tiếp nhận đồng tiền mới này hay không, Dick nói rằng "tất cả mọi người đều sẽ không có sự lựa chọn nào khác trong vấn đề này, chỉ cần ông tạo nên hiệu lực pháp lý đầy đủ cho loại tiền tệ mới này, chính phủ sẽ hoàn toàn ủng hộ, và chúng sẽ thông dụng giống như một loại tiền đích thực, bởi vì hiến pháp trao cho Quốc hội quyền phát hành và quyền quy định giá trị tiền tệ".
Sau khi nghe xong đề nghị này, Lincoln tỏ ra quá đỗi vui mừng, lập tức đề nghị Dick lập kế hoạch cho việc này.
Biện pháp hết sức mới lạ này đã phá vỡ cách làm thường lệ của chính phủ là cần phải vay tiền và chịu lãi suất cao của ngân hàng tư nhân. Loại tiền mới này sử dụng hoa văn màu xanh lục để phân biệt với tiền của các ngân hàng khác và được lịch sử gọi là "tiền xanh". Chỗ mới lạ đặc biệt của loại tiền mới này nằm ở chỗ nó hoàn toàn không được bảo đảm bằng vàng hay bạc, và lợi tức là 5% cho 20 năm.
Trong thời kỳ nội chiến, nhờ có sự phát hành của loại tiền này mà Mỹ đã khắc phục được tình trạng thiếu hụt tiền tệ nghiêm trọng của chính phủ ngay trong giai đoạn đầu của cuộc chiến. Điều này đã huy động một cách hiệu quả nhất tất cả các nguồn vốn của miền bắc nước Mỹ, tạo nên một cơ sở kinh tế vững chắc cho chiến thắng cuối cùng trước quân miền nam. Đồng thời, nhờ có giá thành thấp nên loại tiền này đã trở thành nguồn tích luỹ của ngân hàng miền Bắc, tín dụng ngân hàng của miền Bắc cũng nhờ đó mà được mở rộng, các ngành công nghiệp quốc phòng, xây dựng đường sắt sản xuất nông nghiệp và mậu dịch thương nghiệp đều nhận được sự chi viện tài chính lớn chưa từng có so với trước đó.

Việc phát hiện những mỏ vàng lớn những năm 1848 đã khiến cho nền tài chính Mỹ dần dần thoát khỏi cục diện bất lợi và cực đoan do các ngân hàng châu Âu khống chế, và cũng chính nhờ vào sản lượng lớn những mỏ vàng này nên loại tiền mới của Lincoln mới có thể được người dân tiếp nhận rộng rãi, đặt cơ sở tài chính đáng tin cậy cho việc giành thắng lợi trong cuộc chiến Nam - Bắc. Một điều nữa khiến người ta càng thêm kinh ngạc hơn là, loại tiền mới do Lincoln phát hành không hề gây ra lạm phát tiền tệ nghiêm trọng kiểu như trong thời kỳ diễn ra chiến tranh độc lập. Từ khi cuộc nội chiến nổ ra vào năm 1861 đến khi kết thúc vào năm 1865, chỉ số vật giá của toàn miền bắc Mỹ chỉ tăng một cách nhẹ nhàng từ 100 lên 216. Xem xét quy mô và sự nghiêm trọng về mức độ phá hoại của cuộc nội chiến so với những cuộc chiến có quy mô tương tự khác trên thế giới, chúng ta không thể không nói rằng đây là một kỳ tích tài chính. Ngược lại, miền nam cũng dùng phương thức lưu thông tiền giấy, nhưng hiệu quả thì khác xa một trời một vực, chỉ số vật giá của miền nam trong cùng một thời kỳ đã tăng từ 100 lên đến 2776(32).

Trong suốt thời kỳ nội chiến Nam - Bắc, chính quyền Lincoln đã phát hành số tiền mới 450 triệu đô-la Mỹ. Nhờ. cơ chế vận hành đồng tiền mới này tốt như vậy cho nên tổng thống Lincoln đã xem xét một cách nghiêm túc việc pháp chế hoá vấn đề phát hành loại tiền tệ không thế chấp này (Debt Free Money). Nhưng chính điều này đã như một đòn đau đánh vào lợi ích căn bản của các nhà tài phiệt quốc tế.

Nếu như mọi chính phủ đều không cần phải vay tiền của ngân hàng mà "thản nhiên" tự mình phát hành tiền tệ, thì sự lũng đoạn của các ngân hàng đối với việc phát hành tiền tệ sẽ không còn tồn tại nữa, như vậy không phải là ngân hàng đã trơ mỏ rồi sao?

Cũng vì thế mà ngay sau khi nghe được tin tức này, tờ London Times đại diện cho ngân hàng Anh đã lập tức dăng tải tuyên bố:
"Nếu như chính sách tài chính mới của Mỹ (tiền xanh Lincoln) khiến người ta chán ghét được thực thi vĩnh viễn, chính phủ có thể phát hành khống nguồn tiền tệ của mình. Chính phủ có thể hoàn trả hết mọi khoản nợ đồng thời sẽ thu được những khoản tiền cần thiết để phát triển thương nghiệp, sẽ biến thành một quốc gia phồn vinh chưa từng có trên thế giới. Nguồn nhân tài ưu tú và mọi tài nguyên vốn có trên thế giới này sẽ chảy dồn về bắc Mỹ. Quốc gia này cần phải bị phá huỷ, nếu không nó sẽ phá huỷ từng quốc gia theo chế độ quân chủ trên thế giới".
Chính phủ Anh và Hiệp hội Ngân hàng New York đã bày tỏ sự phẫn nộ đòi hỏi phải thực hiện các hành động đáp trả. Ngày 28 tháng 12 năm 1861, họ tuyên bố đình chỉ chi trả bằng tiền kim loại cho chính phủ Lincoln. Một số ngân hàng ở New York còn đình chỉ việc rút vàng của những người gửi tiết kiệm bằng vàng, đồng thời tuyên bố huỷ bỏ việc chấp nhận dùng vàng mua công trái của chính phủ. Các ngân hàng ở nhiều nơi trên nước Mỹ cũng rầm rộ hưởng ứng. Họ đến Washington để đề xuất những phương án thay đổi vô nguyên tắc đối với tổng thống Lincoln, đòi thực hiện lại những cách làm trong quá khứ, đem những công trái có lợi tức cao bán cho các ngân hàng châu Âu; đem vàng của chính phủ Mỹ gửi vào các ngân hàng tư nhân để dự trữ phát hành tín dụng, các ngân hàng phát tài lớn; chính phủ Mỹ trưng thu thuế của các ngành công nghiệp và người dân để chi trả cho chiến tranh.
Đương nhiên, tổng thống Lincoln đã cự tuyệt yêu cầu hoàn toàn vô lý này của các ngân hàng. Chính sách của ông rất được lòng dân, người dân Mỹ đã nô nức mua hết toàn bộ công trái, và căn cứ vào pháp luật, các công trái này được sử dụng như là hiện kim.
Các nhà tài phiệt ngân hàng thấy kế sách bất thành bèn nghĩ ra kế khác. Họ phát hiện thấy rằng trong luật phát hành tiền xanh Lincoln của Quốc hội hoàn toàn không đề cập đến việc có nên dùng vàng để chi trả lãi tức công trái hay không. Vì vậy, họ cho phép dùng loại tiền mới của Lincoln để mua công trái, nhưng phần lợi tức phải được chi trả bằng tiền kim loại. Đây là một bước trong kế hoạch hoàn chỉnh nhằm gắn kết đồng tiền mới của Lincoln tại Mỹ với giá trị của vàng. Trong khi đó, các ngân hàng châu Âu tích luỹ đồng bảng Anh nhiều hơn bất cứ đồng tiền nào thời đó và nhiều hơn so với tiền vàng của Mỹ. Sự thoả hiệp giữa ngân hàng và Quốc hội Mỹ đã khiến cho thế lực tài chính quốc tế lợi dụng việc khống chế tổng lượng xuất nhập khẩu vàng đối với nước này để gián tiếp thao túng giá trị tiền tệ của Mỹ.
 

10. Đồng minh Nga của Lincoln

Khi các quốc vương ở châu Âu đã chuẩn bị sẵn sàng để đem quân sang chia cắt nước Mỹ, Lincoln lập tức nhớ đến kẻ thù truyền kiếp của các quốc vương châu Âu - nước Nga. Lincoln đã phái đặc sứ cầu cứu Sa hoàng Alexardre Đệ nhị. Khi nhận được thư của Lincoln, Sa hoàng không mở ra ngay mà nâng nâng trên tay, rồi nói rằng: "Trước khi mở bức thư này hoặc biết được nội dung của nó, chúng ta sẽ đồng ý trước với bất cứ yêu cầu nào mà bức thư đề xuất(33).

Nguyên nhân Sa hoàng chuẩn bị tham gia quân sự vào cuộc nội chiến Mỹ có mấy mặt sau đây. Thứ nhất, đó là sự lo lắng "môi hở răng lạnh", vì trong thời kỳ Alexardre đại đế trị vì, các thế lực tài chính quốc tế từng quét sạch châu Âu đã gõ cửa điện Kremli. Học theo kinh nghiệm của các quốc gia tài chính "tiên tiến" ở châu Âu, các ngân hàng cương quyết yêu cầu thành lập ngân hàng trung ương tư hữu, và Sa Hoàng đã sớm nhận ra chiêu độc trong việc này nên đã kiên quyết từ chối yêu cầu này. Khi nhìn thấy tổng thống Lincoln - một nhân vật phản đối các thế lực tài chính quốc tế - rơi vào tình cảnh nguy hiểm, Alexardre đệ nhị lo rằng, nếu không ra tay tương trợ, chẳng mấy chốc mối nguy ấy sẽ ập đến với chính mình. Một nguyên nhân khác là ngày 3 tháng 3 năm 1861 trước khi nổ ra cuộc nội chiến Nam - Bắc ở Mỹ, Alechxandre Đệ nhị đã tuyên bố pháp lệnh giải phóng nông nô, và về vấn đề này, cả Alexardre Đệ nhị lẫn Lincoln đều có những quan điểm chung. Và còn một điều nữa là cuộc chiến tranh Crimean của nước Nga vừa mới kết thúc năm 1856 đã đại bại dưới tay của liên quân Anh - Pháp, vì thế nên Alechxandre Đệ nhị chưa nguôi chuyện rửa hận.

Chưa tuyên chiến, vào ngày 24 tháng 9 năm 1663, dưới sự chỉ huy của tướng Liviski, hạm đội của Nga đã tiến vào cảng New York. Ngày 12 tháng 10, dưới sự chỉ huy của tướng Popov, hạm đội Thái Bình Dương của Nga đã đến San Francisco. Đối với hành động của nước Nga, Wales đã bình luận rằng: "Họ đã đến khi miền nam đang ở vào lúc triều lên còn miền bắc ở vào thế triều xuống. Sự xuất hiện của họ đã tạo nên sự do dự của Anh và Pháp, cuối cùng đã cho Lincohn thời gian để xoay chuyển được cục diện".

Sau khi nội chiến kết thúc, để chi trả khoản phí tổng cộng 7,2 triệu đô-la Mỹ cho hạm đội nước Nga, chính phủ Mỹ đã chần chừ kéo dài thời gian. Vì hiến pháp không trao cho tổng thống quyền chi trả chiến phí cho chính phủ nước ngoài nên tổng thống Johanson khi đó đã đạt được thoả thuận dùng chính vùng đất Alaska mua của nước Nga để chi trả khoản chi phí chiến tranh. Trong lịch sử, vụ việc này được gọi là "Sự điên rồ của Seward". Seward là Bộ trưởng ngoại giao thời đó của Hoa Kỳ và đã bị dân chúng kịch liệt chỉ trích khi bỏ ra 7,2 triệu đô-la để đi mua lại một vùng đất hoang hoá không đáng một xu của Nga.

Cũng vì một nguyên nhân tương tự mà Alexardre Đệ nhị đã bị hành thích vào năm 1867, nhưng vụ hành thích đã không thành công. Ngày 1 tháng 3 năm 1881, Alexardre cuối cùng cũng chết vào tay một thích khách.


 

11. Ai là hung thủ thật sự ám sát Lincoln?

Bismarck - vị Thủ tướng kiên cường và giàu lòng hy sinh của nước Đức đã từng nhận xét một cách sắc bén rằng:
"Ông ấy (Lincoln) được quốc hội trao quyền vay tiền thông qua việc bán khoản công trái cho người dân, như vậy thì chính phủ và quốc gia sẽ thoát được khỏi cái bẫy cài sẵn của các nhà tài chính nước ngoài. Trong khi họ (các nhà tài chính quốc tế) hiểu rõ được rằng nước Mỹ sẽ thoát khỏi vòng khống chế của họ, thì ngày chết của Lincoln chằng còn mấy xa xôi".
Sau khi ra sắc lệnh giải phóng nô lệ da đen và thống nhất miền nam, ngay lập tức Lincoln đã tuyên bố xoá toàn bộ các khoản nợ chiến tranh mà miền nam đã phải gánh chịu.
Các ngân hàng quốc tế - đơn vị chu cấp phần lớn tài chính cho miền nam trong suốt cuộc chiến - đã bị tổn thất nghiêm trọng vì quyết định này. Để trả thù Lincoln, đặc biệt là để xoá bỏ chính sách mới về tiền tệ của Lincoln, họ đã tập hợp các thế lực bất mãn đối với vị tổng thống này, bí mật lên kế hoạch ám sát tổng thống. Với họ, chuyện chỉ đạo đám côn đồ ám sát tổng thống thực tế không phải là một việc khó khăn.
Sau khi Lincoln bị ám sát, dưới sự thao túng của các thế lực tài chính quốc tế, Quốc hội tuyên bố phế bỏ chính sách tiền tệ mới của Lincoln, việc phát hành tiền tệ mới của Lincoln không được vượt quá giới hạn 400 triệu đô-la.
Năm 1972, có người hỏi Bộ tài chính Mỹ rằng, với số tiền mới 450 triệu đô-la Mỹ của Lincoln phát hành, chính phủ rốt cuộc đã tiết kiệm được bao nhiêu tiền lãi. Sau mấy tuần tính toán kỹ lưỡng, câu trả lời của Bộ tài chính là: nhờ tổng số tiền Lincoln tự phát hành cho chính phủ Mỹ mà quốc gia này đã tiết kiệm được 4 tỉ đô-la lợi nhuận(34).

Cuộc nội chiến Nam - Bắc về căn bản là một cuộc tranh giành lợi ích kịch liệt giữa các thế lực tài chính quốc tế cũng như những người đại diện cho các thế lực đó và chính phủ Mỹ trong việc khống chế quyền phát hành tiền tệ quốc gia cũng như chính sách tài chính tiền tệ của Mỹ. Trong thời gian hơn một trăm năm sau cuộc nội chiến Nam-Bắc, đôi bên đã tiến hành những cuộc chiến tàn khốc. Tổng cộng đã có 7 tổng thống Mỹ vì cuộc chiến này mà bị ám sát, nhiều nghị sĩ bị thủ tiêu. Mãi đến năm 1913, việc thành lập hệ thống ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ đã đánh dấu cho thắng lợi mang tính quyết định của ngân hàng quốc tế.

Thật đúng như Bismarck đã nói:
"Cái chết của Lincoln là sự tổn thất nghiêm trọng của thế giới Cơ đốc giáo. Nước Mỹ có thể không còn ai có thể đi lại con đường vĩ đại của ông, còn các ngân hàng sẽ lại một lần nữa khống chế những ai giàu có. Tôi lo rằng các ngân hàng nước ngoài với những thủ đoạn cao siêu và tàn bạo sẽ giành được sự giàu có của nước Mỹ, sau đó dùng nó để huỷ hoại nền văn minh hiện đại một cách có hệ thống".
 

12. Sự thoả hiệp chí mạng: "Pháp lệnh ngân hàng quốc gia" năm 1863

"Vai trò mà tôi đã đóng góp trong việc cho ra đời pháp lệnh ngân hàng quốc gia là sai lầm tài chính nghiêm trọng nhất trong cuộc đời. Sự lũng đoạn (cung ứng tiền tệ) mà nó (pháp lệnh ngân hàng quốc gia) sản sinh ra sẽ ảnh hưởng đến tất cả các phương diện của đất nước này. Nó cần phải bị phế bỏ, nhưng trước khi điều này xảy ra, đất nước này sẽ chia thành hai phía, một bên là người dân, còn bên kia là ngân hàng, và tình huống này vẫn chưa từng xuất hiện trong lịch sử của đất nước này".
Bộ trưởng tài chính Mỹ Salomon (1861-1864)

Sau khi cuộc nội chiến Nam - Bắc bùng nổ, Lincoln đã cự tuyệt khoản lợi tức cắt cổ từ 24% đến 36% của Rothschild và các đại diện khác của họ ở Mỹ, chuyển sang trao quyền cho Bộ tài chính phát hành "tiền giấy quốc gia" (United States Notes) của riêng mình, hay còn được gọi là bạc xanh.

Pháp lệnh tiền tệ chính thức (Legal Tender Act) được thông qua tháng 2 năm 1862. Pháp lệnh này trao quyền cho Bộ tài chính phát hành 150 triệu đồng tiền xanh, liền sau đó vào tháng 7 năm 1862 và tháng 3 năm 1863, lại trao quyền cho Bộ tài chính phát hành thêm 150 triệu tiền xanh nữa. Nói chung, trong thời kỳ nội chiến, tổng số tiền xanh được phát hành đã lên đến 450 triệu.

Việc phát hành tiền xanh của Lincoln chẳng khác nào chọc vào tổ ong vò vẽ của ngân hàng quốc tế. Trước hành động này của tổng thống, các ngân hàng được một vố đau như bò đá, nhưng ngược lại, tầng lớp nhân dân và các ngành công nghiệp khác thì lại tỏ thái độ hết sức hoan nghênh đối với loại tiền xanh này. Đồng tiền xanh của Lincoln được lưu hành mãi đến năm 1994 trong hệ thống tiền tệ của Mỹ.

Năm 1863, khi cuộc chiến đã bước đến hồi quyết định nhất, Lincoln cần nhiều tiền xanh hơn nữa để giành được thắng lợi. Để được trao quyền phát hành tiền xanh lần thứ ba, ông buộc phải cúi đầu trước các thế lực ngân hàng trong Quốc hội để đưa ra một thoả hiệp quan trọng: ký vào pháp lệnh "ngân hàng quốc gia" năm 1863. Pháp lệnh này trao cho chính phủ quyền phê chuẩn việc cho Ngân hàng quốc gia (National Bank) phát hành tiền giấy với tiêu chuẩn thống nhất. Những ngân hàng này trên thực tế sẽ phát hành tiền tệ quốc gia của Mỹ. Một điểm hết sức quan trọng chính là những ngân hàng này dùng trái phiếu chính phủ Mỹ làm nguồn dự trữ cho việc phát hành tiền giấy, và như vậy, sẽ khống chế việc phát hành tiền tệ của Mỹ với các khoản vay của chính phủ, còn chính phủ sẽ mãi không thể hoàn trả hết các khoản nợ này.

John Kenneth Galbraith - nhà kinh tế học lừng danh người Mỹ - đã từng chỉ ra một cách sắc bén rằng: "Rất nhiều năm sau khi cuộc nội chiến kết thúc, hàng năm, chính phủ lại không thể hoàn trả hết những khoản nợ đã vay, cũng không thể bồi hoàn những khoản nợ đã phát hành ra, bởi việc này có nghĩa rằng chẳng còn khoản nợ nào để làm thế chấp cho quỹ tiền tệ quốc gia. Việc hoàn trả hết các khoản nợ cũng đồng nghĩa là đã phá huỷ toàn bộ sự lưu thông tiền tệ, âm mưu của các ngân hàng quốc tế trong việc thiết lập một mô hình ngân hàng ở Mỹ theo kiểu Ngân hàng Anh cuối cùng đã trở thành hiện thực. Từ đây, lợi tức lâu dài từ các khoản nợ của chính phủ Mỹ sẽ chảy vào túi các ngân hàng, và nó chẳng khác nào một sợi thòng lọng ngày càng siết chặt vào cổ nhân dân Mỹ. Đến năm 2006, tổng vay của chính phủ Mỹ đã lên đến con số khổng lồ 860.000 tỉ đô-la, bình quân mỗi nhà có bốn người phải gánh chịu một khoản nợ quốc gia lên đến 112.000 đô-la, và tốc độ tăng trưởng tổng nợ cả đất nước Mỹ trong mỗi giây là 20.000 đô-la! Khoản chi trả lợi tức của chính phủ liên bang Mỹ đối với nợ quốc gia chỉ đứng sau ngân sách dành cho y tế và quốc phòng, và đến năm 2006 sẽ đạt đến con số khổng lồ 400 tỉ đô-la Mỹ.

Bắt đầu từ năm 1864, các ngân hàng có thể đời đời kiếp kiếp hưởng thụ bữa đại tiệc lợi tức từ khoản nợ quốc gia này của Mỹ. Chỉ vì xem nhẹ sự khác biệt giữa việc chính phủ trực tiếp phát hành tiền tệ với việc chính phủ phát hành công trái còn ngân hàng phát hành tiền, mà các nhà ngân hàng đã tạo nên một sự bất công lớn nhất trong lịch sử loài người. Người dân bị ép phải nộp thuế gián tiếp qua các ngân hàng, mà những khoản thuế này chính là tài sản và tiền bạc do mồ hôi nước mắt của họ làm nên!

Mãi đến ngày nay, Trung Quốc là một trong số ít quốc gia trên thế giới có chính sách phát hành tiền tệ do chính phủ trực tiếp điều hành. Nhờ đó khoản lợi tức phải chi trả mà chính phủ và người dân đã tiết kiệm được trở thành nhân tố quan trọng không thể thiếu khiến Trung Quốc có thể phát triển nhanh và bền vững như vậy. Nếu có ai đó đưa ra đề xuất phải học hỏi "kinh nghiệm tiến bộ" của nước ngoài, ngân hàng nhân dân cần phải dùng nợ quốc gia của chính phủ làm thế chấp để phát hành đồng nhân dân tệ, thì người dân Trung Quốc cần phải coi chừng.

Lincoln không phải là không biết đến nguy cơ đe doạ vĩnh cửu này và dự tính rằng, sau khi thắng cử ở nhiệm kỳ kế tiếp vào năm 1865, ông sẽ phế bỏ pháp lệnh này, nhưng chỉ 42 ngày sau khi trúng cử, Lincoln đã bị ám sát. Các thế lực ngân hàng quốc tế trong Quốc hội thửa thắng xông lên. Họ cho rằng, cần phải loại bỏ đồng tiền xanh của Lincoln thì mới có thể kê cao gối mà ngủ được. Ngày 12 tháng 4 năm 1866, Quốc hội đã thông qua "Pháp lệnh thu hồi" (Contraction Act), hòng thu hồi tất cả các đồng tiền xanh hiện đang lưu thông, và đổi lại thành tiền kim loại, sau đó gạt bỏ tiền xanh ra khỏi hệ thống lưu thông, khôi phục chế độ bản vị vàng.

Ở một đất nước vừa thoát khỏi cuộc chiến điêu tàn cần khôi phục, chẳng có gì hoang đường hơn là một chính sách kiểm soát gắt gao tiền tệ. Lượng tiền tệ lưu thông 1,8 tỉ đô-la Mỹ từ năm 1866 (tức khoảng 50,46 đô-la Mỹ mỗi người), đã sụt giảm xuống còn 1,3 tỉ đô-la Mỹ năm 1867 (tức 44 đô-la Mỹ mỗi người), 600 triệu đô-la Mỹ năm 1876 (mỗi người 14,6 đô-la), cuối cùng là giảm xuống còn 400 triệu đô-la Mỹ (mỗi người 6,67 đô-la) năm 1886. Trong bối cảnh một nước Mỹ với nhiều vết thương chiến tranh cần chữa trị, một nền kinh tế cần được phục hồi và phát triển, đồng thời tình hình dân số tăng nhanh, nhưng lượng cung ứng tiền tệ lại thiếu hụt, đa số người dân đều cho rằng sự thịnh suy là quy luật của phát triển kinh tế. Nhưng trên thực tế, việc thao túng nguồn cung ứng tiền tệ theo kiểu khi buông khi siết của các ngân hàng quốc tế mới là nguồn cơn thực sự của vấn đề.

Mùa đông năm 1872, các ngân hàng quốc tế đã phái Ernest Seyd đem theo một khoản tiền lớn từ Anh vào Mỹ.

Bằng việc hối lộ các quan chức, Ernest Seyd đã đạt được mục đích của mình: thông qua "pháp lệnh tiền đúc năm 1873" (Coinage Act) mà lịch sử gọi là "pháp lệnh ngu xuẩn 1873".

Đích thân Ernest Seyd đã soạn thảo pháp lệnh này, và nó đã gạt bỏ tiền bằng bạc ra khỏi hệ thống lưu thông tiền tệ, và như vậy, tiền vàng trở thành thứ tiền tệ duy nhất. Pháp lệnh này được ví như hiện tượng phủ sương lên tuyết cho dòng lưu thông tiền tệ vốn đã thiếu hụt trầm trọng. Sau khi xong việc, Ernest Seyd vênh váo tự đắc nói rằng: "Mùa đông năm 1872, ta đã làm một chuyến đến Mỹ, ta đã đảm bảo chắc chắn việc thông qua pháp lệnh tiền đúc để phế bỏ tiền bạc. Cái mà ta đại diện là lợi ích của các vị chủ tịch Ngân hàng Anh quốc. Đến năm 1873, tiền vàng đã trở thành loại tiền kim loại duy nhất".

Nhưng sự thật, tác dụng của việc loại trừ tiền bạc ra khỏi lĩnh vực lưu thông tiền tệ quốc tế là nhằm để đảm bảo chắc chắn sức khống chế tuyệt đối của các ngân hàng quốc tế đối với lượng cung ứng tiền tệ thế giới, đồng thời đối phó với việc tăng cường khai thác các mỏ bạc trong khi sản lượng các mỏ vàng ngày càng ít đi. Sau khi đã nắm giữ được việc khai thác các mỏ vàng thế giới, đương nhiên ngân hàng quốc tế không muốn lưu lượng tiền bạc mà họ khó khống chế được lại can dự vào địa vị bá quyền tài chính thế giới của mình. Vì thế, kể từ năm 1871, bạc trắng đã được loại trừ đồng loạt ở các quốc gia Đức, Anh, Hà Lan, Áo, Scandinavi, khiến lượng lưu thông tiền tệ của mỗi quốc gia bị co rút lại, từ đó đã dẫn đến cuộc đại suy thoái kinh tế nghiêm trọng kéo dài 20 năm ở châu Âu (Long Depression, 1873 - 1896).

Ở Mỹ, "pháp lệnh thu hồi" và "pháp lệnh tiền đúc" đã trực tiếp gây nên cuộc đại suy thoái kinh tế từ năm 1873 đến năm 1879. Trong khoảng thời gian ba năm này, tỉ lệ thất nghiệp của Mỹ đã lên đến mức 30%, người dân Mỹ đã cương quyết yêu cầu phải khôi phục lại thời kỳ lưu hành song song tiền bạc và tiền xanh Lincoln. Dân chúng Mỹ đã thành lập các tổ chức tự phát như hội bạc trắng (US Silver Commission), hội tiền xanh (Greenback Party), thúc đẩy cả nước khôi phục lại chế độ lưu hành song song tiền vàng và tiền bạc, phát hành lại tiền xanh Lincoln vốn được người dân rất hoan nghênh.

Báo cáo của hội bạc trắng ở Mỹ đã chỉ ra: "Sự điêu tàn trong thời kỳ trung cổ là do nạn thiếu hụt tiền tệ và sự sụt giá gây nên. Không có tiền tệ thì không có văn minh, còn nếu lượng cung ứng tiền tệ giảm, văn minh tất nhiên sẽ tiêu vong. Lượng lưu thông tiền tệ kim loại của đế quốc La Mã tương đương với 1,8 tỉ đô-la Mỹ, đến cuối thế kỷ 15, lượng lưu thông tiền tệ kim loại của châu Âu chỉ còn lại 200 triệu đô-la Mỹ. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có bất cứ tai hoạ nào sánh bằng việc đế quốc La Mã trờ về thời kỳ trung cổ".

Nhưng trước những đòi hỏi của dân chúng Mỹ, Hiệp hội các nhà ngân hàng Mỹ (The American Bankers Association) tỏ thái độ dứt khoát lạnh lùng. Trong thư gửi cho các hội viên, các nhà ngân hàng đã nêu rõ rằng:
"Cùng với sự hỗ trợ của các tờ báo danh tiếng, đặc biệt là sự hỗ trợ của các tổ chức nông nghiệp và tôn giáo, chúng tôi đề nghị quý vị hãy dốc sức để kiên quyết phản đối việc chính phủ phát hành tiền xanh. Quý vị phải chấm dứt trợ giúp những ai tỏ ý ủng hộ chính phủ trong việc phát hành tiền xanh. Hành động của chính phủ sẽ làm phương hại nghiêm trọng đến lợi nhuận của ngân hàng cũng như lợi ích của những người cho vay như chúng ta. Ngay lập tức, quý vị phải gặp gỡ với các đại biểu quốc hội trong khu vực của mình và yêu cầu họ bảo vệ lợi ích của chúng ta. Như vậy, chúng ta có thể khống chế được luật pháp"(35).
Năm 1881, trong cảnh kinh tế tiêu điều, tổng thống thứ 20 của Mỹ là James Garfield bước lên đài chính trị và đã nắm bắt được điểm cốt yếu của vấn đề. Ông nói rằng:
"Ở bất cứ quốc gia nào, ai khống chế được việc cung ứng tiền tệ thì người đó trở thành người chủ tuyệt đối của các ngành công, thương nghiệp hiện có. Nếu hiểu rõ được rằng, hệ thống tiền tệ được kiểm soát và khống chế một cách dễ dàng bởi một nhóm người, bạn sẽ hiểu rõ nguồn gốc của nạn lạm phát và chính sách siết chặt tiền tệ".

Chỉ mấy tuần sau bài phát biểu của mình, tổng thống James đã bị Charles Guiteau - một tên "mắc bệnh tâm thần" ám sát vào ngày 2 tháng 7 năm 1881. tổng thống bị bắn hai phát và cuối cùng qua đời ngày 19 tháng 9.

Trong suốt thế kỷ 19, các ngân hàng quốc tế đã thành công với sách lược "dùng quyền lực của đồng tiền thần thánh để thu được vương quyền thần thánh". Tại Mỹ, "quyền lực thần thánh của đồng tiền cũng dần làm tan rã dân quyền thiêng liêng". Sau những cuộc đối đầu kịch liệt kéo dài hàng trăm năm với chính phủ dân cử của nước Mỹ, các ngân hàng quốc tế đã chiếm thế thượng phong. Các nhà sử học Mỹ đã chỉ ra rằng, tỉ lệ tử vong của các đời tổng thống Mỹ còn cao hơn nhiều so với tỉ lệ tử trận của thuỷ quân lục chiến Mỹ trong chiến dịch Normadie.

Khi các ngân hàng nghênh ngang đắc ý tự cho mình là kẻ nắm được pháp lệnh ngân hàng quốc gia năm 1863 trong tay thì mục tiêu thành lập một ngân hàng tại Mỹ theo mô hình Ngân hàng Anh chỉ còn là việc trong tầm tay. Như vậy, hình hài một ngân hàng trung ương tư nhân hoàn toàn khống chế quyền phát hành tiền tệ của Mỹ - ngân hàng của các nhà tài phiệt - đã bắt đầu hình thành.

Thursday, June 9, 2011

Trò chuyện với ông Vũ Khoan (Phần II)

Trò chuyện với ông Vũ Khoan (Phần I)

“Lễ tân ngoại giao Hồ Chí Minh”, lễ tân đậm “tính nhân văn”, lễ tân “phá cách”…là những nội dung mà anh Vũ Khoan trò chuyện với Lều văn Thăng Sắc lần này. Bằng những trải nghiệm của chính mình, anh Vũ Khoan không chỉ chia sẻ với mọi người những đúc kết có tính lý luận mà còn kể lại những câu chuyện “cười ra nước mắt” chung quanh một công tác rất quan trọng của nghề ngoại giao : công tác lễ tân.


Lều văn Thăng Sắc xin giới thiệu phần II cuộc trò chuyện với anh Vũ Khoan.

II- LỄ TÂN NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH

Lều văn Thăng Sắc :

- Thưa anh, có ý kiến cho rằng lễ tân kỹ thuật là cần thiết nhưng nó mới chỉ là lễ tân hình thức, chưa có hồn. Theo anh, cái hồn của lễ tân ngoại giao là gì ?

Anh Vũ Khoan :

- Ngoại giao không chỉ là lễ tân nhưng ngoại giao không thể thiếu lễ tân. Nói nôm na thì lễ tân ngoại giao là như những nghi lễ đón tiếp khách nước ngoài; tổ chức các chuyến thăm nước ngoài của lãnh đạo; bảo đảm các nghi thức tiến hành các cuộc tiếp xúc, hội đàm, ký kết, chiêu đãi, mít-tinh, giao lưu, tham quan và cả ma chay nữa...Nói thì ngắn gọn vậy thôi chứ đằng sau chúng là hàng trăm, hàng nghìn đầu việc cụ thể, tỷ mỉ khác nhau. Trên thế giới người ta đã viết rất nhiều sách về các nghi lễ ngoại giao; nó trở thành một môn học chính thống trong các trường, lớp ngoại giao. Mình không được đào tạo đến nơi đến chốn về công tác ngoại giao, kể cả công tác lễ tân nên nhiều việc biết được nhờ “học lỏm” qua thực tế và qua sự quan sát xem thiên hạ làm thế nào.


Thực ra lễ tân ngoại giao hiện đại thường tuân theo các nghi thức của phương Tây, bắt đầu từ các nghi lễ cung đình rồi dần rà được “dân chủ hóa”, đơn giản hóa và địa phương hóa cho phù hợp với truyền thống của mỗi quốc gia.




Trong ảnh : Bác Hồ và Bác Tôn tiếp ông Tréc-van-cốp, phía sau là anh Vũ Khoan

Ở nước ta, lễ tân ngoại giao cũng tuân theo các quy định, thông lệ quốc tế nhưng mang nhiều sắc thái Việt Nam. Người để lại dấu ấn sâu đậm nhất về phương diện này chính là Bác Hồ. Nói một cách đơn giản nhất , cái hồn của lễ tân ngoại giao Việt Nam hay lễ tân ngoại giao Hồ Chí Minh chính là “tính nhân văn”, “ tính con người”(human being); loại bỏ sự quan cách, bệnh hình thức phù phiếm. Ta đã từng được nghe nhiều về chuyện Bác Hồ mang theo quả táo từ quốc yến của Chính phủ Pháp khoản đãi để cho cháu bé nghèo ở cửa; tự Người vác trên vai tấm thảm do Tổng thống Ấn độ tặng trên lễ đài cuộc mít tinh với hàng vạn người tham gia để chào mừng Người…

Riêng tôi đã được chứng kiến nhiều cử chỉ “phá cách”, đầy tính người của Bác trong các hoạt động ngoại giao. Tôi xin kể vài chuyện mình được mục sở thị. Mỗi khi sang thăm Liên Xô Bác thường được bạn bố trí ở biệt thự trên đồi Lê-nin hoặc ở ngoại ô Mat-xcơ-va. Tất nhiên sự phục vụ ở những nơi đó vô cùng chu đáo và trang trọng. Thế mà Bác lại không cho các cô phục vụ bưng thức ăn cho từng người mà yêu cầu để thức ăn trên nóc tủ buyt-phê, ai muốn ăn gì tự ra lấy, ăn xong tự dọn bát đĩa bẩn vào bếp. Tôi thưa với Bác rằng, bạn rất khó xử vì không bảo đảm nghi thức lễ tân, vả lại tới ăn còn có cả các nhà lãnh đạo Liên Xô. Bác nói, cứ làm như vậy, chắc các đồng chí ấy cũng thông cảm và làm theo. Quả nhiên các nhà lãnh đạo Liên Xô đến ăn cơm với Bác rất vui vẻ làm theo.

Một lần Đoàn đại biểu Quốc hội Bun-ga-ri sang thăm Việt Nam. Dẫn đầu đoàn là ông Vưn-cô Tréc-van-cốp, nguyên là Tổng Bí thư BCH TW Đảng sau khi Đ. Đi-mi-trốp từ trần (Đi-mi-trốp vốn là Tổng Bí thư Quốc tế Cộng sản từng hiên ngang trước tòa án của Đức Quốc xã vu cáo ông chủ mưu đốt Nhà Quốc hội Đức). Sau đận “chống sùng bái cá nhân” do Khơ-rút-sôp phát động, ông Tréc-van-cốp bị thất sủng và đương nhiên tâm tư không được thoải mái lắm. Hơn nữa khi đoàn đi thăm Hải phòng lại xẩy ra một vụ việc động trời: khi đoàn xe của đoàn dừng lại ở cầu Phú lương hay Lai vu gì đó để chờ tầu hỏa đi qua, anh em bảo vệ ta đã lên hết đường tầu để…”giải quyết vấn đề”. Tôi cùng ngồi xe với ông bà Tréc-van-cốp (bà đó là em gái Đi-mi-trốp) cùng ông Tôn Quang Phiệt, Phó Chủ tịch Quốc hội. Vừa mở cửa xe ra, thấy cảnh ấy, mặt đỏ như gấc, ông đóng sầm cửa lại và từ đó lầm lì không nói gì nữa. Về Hà nội tôi báo cáo Bác và các đồng chí lãnh đạo; Bác đã chỉ thị thi hành kỷ luật và thay toàn bộ lực lượng bảo vệ Đoàn. Sáng hôm sau, sáng tinh mơ tôi trực ở Nhà khách 12 Ngô Quyền được tin Bác xuống. Bác bảo tôi thông báo cho ông bà Tréc-van-côp biết. Khi tôi gõ cửa phòng ông ta thò cổ ra, mặt hầm hầm. Tôi vội thông báo Bác Hồ tới thăm và đúng lúc ấy Bác từ đầu hành lang lững thững tiến lại. Thế là ông bà vội ra đón Bác trong một tư thế vô tiền khoáng hậu về lễ tân ngoại giao: ông ấy vẫn mình trần, chỉ quấn chiếc khăn tắm, còn bà Ma-ri-a Đi-mi-trô-va mặc váy ngủ! Bác bảo tôi lôi mấy chiếc ghế mây ra sân thượng ngồi cho mát. Yên vị ông Tréc-van-cốp băn khoăn nói: đáng ra tôi phải đến chào đồng chí trước, theo chương trình là chiều nay, sao đồng chí lại đến bất ngờ thế này, vợ chồng tôi chưa kịp chuẩn bị gì cả. Đáp lại Bác nói: ở Việt Nam có câu:”Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, đồng chí đã từng giảng bài ở Trường Đại học Cộng sản Mat-xcơ-va, còn tôi đã từng đến nghe giảng ở đó, như vậy đồng chí là thầy của tôi, thầy đến nhà, trò phải chào thầy trước. Vả lại em gái nuôi của tôi là cô Ma-ri-a đến thì tôi phải gặp chứ. (Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ cái cảm giác lúng túng khi phải dịch câu châm ngôn “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” Bác dùng). Sau đó ba người hàn huyên thân tình với nhau; mọi sự bực tức của ông bà đã tiêu tan hẳn. Cái cử chỉ “phá cách lễ tân” có một không hai đó của Bác vừa thể hiện sự tinh tế đầy tính văn hóa Việt Nam rất con người, trọng tình, trọng nghĩa, không câu nệ lễ nghi, vừa là cách khéo léo trang trải mọi ưu phiền của khách.

Lều văn Thăng Sắc :

- Có lẽ chỉ có Bác Hồ mới có thể “phá cách” như thế ?

Anh Vũ Khoan :

- Những chuyện “phá cách” như vậy của Bác Hồ thì còn nhiều, khi nào có dịp sẽ chia sẻ tiếp nhé!


Tôi được nghe nhiều vị khách nước ngoài nhận xét rằng, sang Việt Nam luôn cảm thấy thoải mái hơn nhiều so với các nước khác. Trong nhiều nhân tố tạo nên tâm tư đó, theo tôi, có một nhân tố nói ở trên là cách đối xử theo tình người, sự thoải mái, không quá câu nệ lễ nghi. Tôi sang thăm Trung Quốc rất nhiều lần, trên các cương vị rất khác nhau và nhận thấy lễ tân Trung Quốc chu đáo đến tột cùng nhưng rất gò bó: ở Nhà khách Chính phủ là khu Điếu Ngư Đài thì đôi tay của anh không có việc gì để làm cả: ra cửa có người mở cửa, ra xe có người mở cửa xe, khăn ăn có người trải trên đùi, đi cắt tóc ngay nhà bên cạnh có người dẫn đi dẫn về, bơi thuyền có người đạp xe xung quanh hồ để rè chừng, bơi sông có lưới ở dưới…Còn ở Việt Nam thì các vị khách, kể cả Hoàng gia, đều được đối xử thân tình, thoải mái, không bị chăm sóc quá mức, và điều này rất hợp với bản tính con người muốn được tự do, thoải mái.

Theo dòng “lễ tân Hồ Chí Minh” đó, lễ tân của ta thường thể hiện tinh thần “gần dân”. Ngay trong những năm chiến tranh mỗi khi đoàn nước ngoài tới thăm đều tổ chức cho bạn đi thăm các nhà máy, hầm mỏ, trường học, ruộng đồng, tiếp xúc với những người dân bình thường. Nhiều nước khác cũng làm như vậy thôi song ở ta tôi cứ thấy đoàn với dân không quá xa cách. Tôi nhớ hồi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô A.Cô-xư-ghin lần đầu tiên sang thăm ta , Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã cùng ông đi bơi thuyền ở Hồ Tây, đi thăm HTX Yên sở, ở đó Chủ nhiệm Hợp tác xã đã biếu ông ấy con cá quả rất to để “bồi dưỡng”! (tôi đã phải cố vận dụng vốn tiếng Nga của mình để lột tả nghĩa của từ “bồi dưỡng” rất dân dã đó).

Về sau này, khi đã giữ cương vị lãnh đạo tôi luôn đề nghị lễ tân phát huy tính chất ấy. Tôi xin kể ra đây ba sự kiện.

Khi ta chủ trì Hội nghị cấp cao A-Âu (ASEM), sau Lễ khai mạc, các Trưởng đoàn sẽ phải về Trung tâm Hội nghị quốc tế ở 13 Lê Hồng Phong họp. Lúc đầu lễ tân dự kiến bố trí xe bus chở khách đi nhưng việc này rất lích kích nên tôi đã quyết định tổ chức đi bộ từ Hội trường Ba đình sang, dọc đường bố trí các cháu nữ học sinh mặc áo dài, cầm cờ hoa vẫy chào. Quả nhiên tiết mục ấy đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với cả hai phía: các đoàn và dân ta. Cũng nhân việc này mà cái vườn hoa nhỏ ở Bà Huyện Thanh quan trước đó có lều quán, nhếch nhác đã được dọn sạch sẽ cho tới ngày nay.

Khi ta chủ trì Cấp cao APEC lúc đầu cũng có ý kiến để các cơ quan, trường học nghỉ cho đỡ kẹt đường. Sau khi cân nhắc, lãnh đạo ta đã quyết định cứ để mọi sinh hoạt diễn ra bình thường. Tôi đã góp phần vào quyết định này vì nhớ tới Cấp cao Thượng Hải 2001 bạn đã cho dân trong các khu phố liên quan tới Hội nghị nghỉ việc và đi nghỉ xa dài ngày do đó đi xe giữa một thành phố hiện đại nhưng có cảm giác rất lạnh lẽo, cứ như là đi trong một thành phố vừa bị dội bom nơ-trôn! Quả nhiên việc các đoàn xe phóng trên đường phố Hà nội giữa lòng người dân vẫn sinh hoạt bình thường, vui vẻ vẫy chào khách đã gây ấn tượng rất tốt với các vị khách vốn bị cô lập ngay cả ở nước mình. Cái cảnh Thủ tướng Ô-xtrây-lia chạy tập thể dục quanh Hồ Hoàn Kiếm giữa dòng người dân tập thể dục buổi sáng là một cảnh rất Việt Nam.

Theo chương trình đón Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm-đào sang thăm chính thức nước ta, sau lễ đón bên Phủ Chủ tịch sẽ hội đàm bên Trụ sở Trung ương Đảng phía đối diện, cũng trên đường Hùng Vương. Ta đã bố trí cho lãnh đạo hai bên đi bộ sang, dọc đường đông đảo nhân dân cầm cờ hoa vẫy chào, tạo nên không khí rất gần gũi giữa lãnh đạo và người dân. Về sau này các bạn Trung Quốc mỗi khi gập tôi đều ca tụng “sáng kiến” đó.

Lều văn Thăng Sắc :

- Sợ rằng làm lễ tân “gần dân” như thế rất dễ xẩy ra sơ xuất ?

Anh Vũ Khoan :

- Tất nhiên, việc phát huy phong cách “lễ tân gần dân” là điều rất tốt song cũng phải lo sao cho chu đáo, không sơ xuất điều gì. Việc này không dễ chút nào nếu tính rằng, nhiều người dân chưa tôn trọng trật tự đường phố và giao thông, kể cả vệ sinh công cộng, có khi tiểu tiện tùy tiện. Tôi cứ nhớ mãi khi mới từ Liên Xô về Bộ năm 1956, trong một cuộc họp chuẩn bị đón đoàn nước ngoài tới thăm nước ta, ông Vụ trưởng Lễ tân BNG lúc bấy giờ đã phải nhắc lãnh đạo Hà nội chú ý tình trạng đái bậy! Về sau, khi giữ các cương vị lãnh đạo tôi cũng phải luôn nhắc nhở các ngành, các cấp chú ý chuyện này.

Lều văn Thăng Sắc :

- Thưa anh, ngoài yêu cầu gần dân, lễ tân ngoại giao còn những yêu cầu nào khác ?

Anh Vũ Khoan :

Một yêu cầu nữa của công tác lễ tân là “giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”. Điều này thường được thể hiện trong 4 việc: ăn, mặc, giải trí và quà tặng.

Theo yêu cầu đó, khi thết khách nhất thiết cố đãi đằng một vài món ăn dân tộc để quảng bá văn hóa ẩm thực của dân tộc mình song cũng không nên quá lạm dụng vì cần tính đến cả khẩu vị của khách. Tôi nhớ có lần chiêu đãi ông Đại sứ Xô-ma-li ở Mát-xcơ-va nhân dịp hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, ĐSQ ta cũng thết món “đầu vị” là nem Sài gòn nhưng thấy ông ta cứ ngồi, không chịu ăn. Hóa ra ông theo đạo Hồi nên không thể ăn nem nhân thịt lợn được! Phát hiện ra điều đó, ta phải thết ông ta trứng rán vậy. Để tránh mọi trục trặc, tốt nhất là chủ động hỏi trước xem khách kiêng món gì để tránh.

Một quy luật bất biến là nhất thiết không được thết những món quá “độc” như món “mộc tồn” chẳng hạn. Trên thế giới có lẽ chỉ có dân ta, dân Triều tiên (cả Bắc lẫn Nam) và một bộ phận dân Quảng Đông Trung quốc là khoái món này. Có người “tinh nghịch” ngầm thết khách ăn món thịt chó để “thử”; khi cảm nhận thấy mùi vị lạ, nhất là khi lộ tẩy thì người ta nôn ọe, oán thoán thì thật tệ hại!

Một yêu cầu thết khách nữa là chủ phải nắm được đặc điểm của món ăn đãi khách để có thể giới thiệu được thì mới có tác dụng quảng bá. Ơ Trung Quốc món nào cũng có “lai lịch” rất lý thú, nhờ vậy chủ có đề tài để giới thiệu và làm đầu câu chuyện. Ví dụ món cơm rang Triều châu xuất phát từ câu chuyện Vua Càn Long vi hành xuống Quảng đông; chiều muộn đói bụng vào một quán bên đường nhưng chủ quán cho biết hết cả thức ăn rồi; nhà Vua bèn yêu cầu vét hết mọi thứ còn lại rang lên ăn. Chủ quán đã chiều theo khách, vét hết cơm nguội và ít thức ăn còn lại rang lên và nhà Vua ăn thấy rất ngon miệng, đặt tên là cơm rang Triều châu! Tiếc rằng ở ta hình như không có truyền thống này.

Các nước còn có quốc tửu, thế nhưng ta lại chưa có, cho dù “quốc lủi” rất ngon, hoàn toàn có thể biến thành quốc tửu, còn rượu vang là đặc sản của phương Tây nên có lẽ chẳng dùng vang Đà lạt làm quốc tửu được.

Đó là chuyện thết khách, trong ngoại giao còn chuyện mình nên ăn uống thế nào nữa. Ơ ta có câu: “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, câu này hoàn toàn có thể trở thành phương châm của ngoại giao. Ơ trong rừng ra, từ đồng ruộng lên, mình có biết cách ăn, cách uống lịch lãm theo kiểu ngoại giao, dùng dao dĩa ra sao đâu? Vậy lúc đầu chưa quen, tốt nhất là đừng áp dụng phương châm “ăn đi trước” mà hãy áp dụng câu châm ngôn trên: để ý xem người ta ăn, người ta uống thế nào rồi bắt chước làm theo thì khỏi bị hố. Đây cũng là điều Bác Hồ dậy cán bộ ngoại giao khi Bác đến thăm Bộ.

Cá nhân tôi có 2 chuyện nhớ đời về phương diện này. Năm 1951 chúng tôi được đưa sang Trung Quốc học. Vừa ở trong rừng Việt Bắc sang Nam ninh, tối hôm đó được đưa vào một hiệu Cao lâu đèn nê-ông sáng lòa, bàn trải khăn trắng phau. Người ta bầy lên bàn la liệt thức ăn, trong đó có món đậu phụ nhự (có khi ta gọi là chao) vốn là một đặc sản của Quảng Tây. Tôi gắp cả miếng cho vào miệng thì cay ơi là cay, như ngậm hòn than nóng vào miệng nhưng nuốt không trôi, nhả ra không đặng nên đành chiêu một ngụm nước rồi nuốt chửng. Còn một lần khác, nhân Hội nghị quốc tế 81 Đảng cộng sản và công nhân ở Mát-xcơ-va năm 1961 tôi được huy động vào phục vụ Đoàn Đảng ta do Bác Hồ dẫn đầu. Mỗi bữa ăn bạn bầy trên bàn đủ sơn hào hải vị và tôi cứ hồn nhiên gắp ăn. Thấy vậy Bác Hồ nhắc: cháu ăn món nào thì ăn hết đĩa đó đi chứ mỗi đĩa gắp một chút thừa ra ai ăn? Từ đó trở đi tôi cứ nhắm món mình ưa thích giã cho hết rồi “chuyển làn” sang món khác.

Trong ngoại giao uống cũng phải rất chừng mực, không thể “dzô,dzô” hay “100%” được vì sẽ mất tư thế, thậm chí có thể để xẩy ra sơ xuất ngoại giao. Hồi mới ra làm việc tại ĐSQ nước ta ở Mát-xcơ-va, một lần ĐSQ Mông Cổ tổ chức liên hoan giữa 4 ĐSQ XHCN ở châu A là Việt Nam, Trung Quốc, Triều tiên và Mông Cổ. Một anh cán bộ ĐSQ ta ngà ngà say rồi ngủ gà ngủ gật, tay cầm cốc rượu cứ thế rót vào…đùi bà Mông cổ ngồi bên cạnh! Giữ ý, bà ta cứ ngồi yên cho tới khi chén rượu cạn mới nhẹ nhàng đứng lên ra ngoài. Bà ấy ứng xử đúng là ngoại giao.

Về mặc thì cho tới nay ta cũng chưa định hình được quốc phục trong khi tất cả các nước trong ASEAN và nhiều nước khác đã có. Hồi anh Sáu Dân làm Thủ tướng cũng đã nêu vấn đề này, thậm chí đã cho thiết kế và trưng bầy nội bộ song không thành vì lắm ý kiến quá. Có thời Bộ Ngoại giao đã phải sáng chế ra “quốc phục” cho các đại sứ ta trình quốc thư: đó là chiếc áo hao hao như áo Tôn Trung Sơn của Trung quốc (tức áo cổ cao, cài kín) do đó báo chí phương Tây đã bình luận rằng, ngay cả ăn mặc ta cũng chịu ảnh hưởng của Trung Quốc. Sau ta đã phải bỏ kiểu “quốc phục” này, khi cần thì đi thuê áo đuôi tôm (smoking) vậy. Năm 2007, khi tôi sang Nhật nhận Huân chương “Mặt trời mọc” của Nhật hoàng, ĐSQ nước ta cũng đã phải thuê cho tôi một bộ như vậy.

Nước chủ nhà thường tổ chức các buổi biểu diễn văn nghệ để giới thiệu văn hóa nước mình, đồng thời để tỏ lòng mến khách đôi khi điểm vài tiết mục hát múa dân tộc của nước đoàn đến thăm. Vấn đề là nội dung, chất lượng và liều lượng làm sao cho thích hợp. Đương nhiên những tiết mục “đinh” phải mang đậm bản sắc dân tộc song chẳng nên tham trình diễn những tiết mục dài lê thê, khó hiểu, làm cho khách mỏi mệt mà nên xen lẫn những tiết mục hiện đại, sôi động. Còn những tiết mục cốt để “khoe” rằng ta cũng hiểu biết nền văn hóa của khách thì cũng chẳng nên lạm dụng vì làm sao ta có thể trình diễn hay hơn nghệ sỹ của họ được? Về thời lượng buổi biểu diễn thì không nên tham lam, quá kéo dài. Sở dĩ đề cập chuyện này vì tôi đã từng vấp phải những thiên hướng như vậy mỗi khi xét duyệt các chương trình nghệ thuật. Tôi nhớ mãi Cấp cao ASEM-5: anh em Bộ Văn hóa đã chuẩn bị tiết mục các em thiếu nhi múa hát trước mặt các vị trưởng đoàn ngồi trên Đoàn Chủ tịch. Thấy cảnh các cháu mồ hôi nhễ nhại, son phấn chảy ròng ròng, các tiết mục cũng không có gì là “ đặc sắc dân tộc” cả nên tôi đã đề nghị bố trí một dàn kéo violon ăn mặc lịch sự, biểu diễn một bài nhạc Việt Nam, một bài kinh điển của Betthoven vừa nhẹ nhàng, vừa lịch lãm, vừa thể hiện sự giao thoa văn hóa Đông-Tây đúng với tinh thần A-Âu.

Quà tặng trong ngoại giao cũng phải mang sắc thái dân tộc, đồng thời phải bảo đảm chất lượng cao. Mặt khác khi tặng quà cần nắm được truyền thống và luật lệ của mỗi nước. Một thời ta hay tặng đồ sơn mài, nhiều khi là hàng chợ; chất lượng nghệ thuật rất thấp đã dành, chất lượng về mặt kỹ thuật vô cùng tồi. Một lần tôi gập Thượng nghị sỹ Mỹ thuộc Đảng Cộng hòa M’Caine (từng bị ta bắn rơi ở hồ Trúc bạch, sau được bầu làm TNS, có lúc đã ra tranh cử Tổng thống Hoa kỳ); khi chia tay, ông đề nghị tôi nán lại một chút rồi đi vào phòng bên lấy ra một bức tranh sơn mài Việt Nam đã cong vênh rồi nói: các bạn nên chú ý chất lượng quà tặng, tôi hiểu Việt Nam thì không sao, nếu là người khác thì không hay! Thật tình tôi ngượng chín cả mặt, chỉ còn biết hứa sẽ để ý việc này. Luật lệ ở một số nước rất ngặt nghèo trong việc nhận quà biếu của nước ngoài. Khi đi tiền trạm cho anh Sáu Dân sang thăm Singapore để bình thường hóa quan hệ vào năm 1991, lễ tân của bạn dặn tôi rằng, các ông đừng mang theo tặng phẩm vì sau khi nhận chúng tôi phải làm thủ tục nộp hết cho Bộ Tài chính, muốn giữ lại thì phải bỏ tiền ra mua nên rất phiền toái! Đối với những nước như vậy thì cùng lắm chỉ nên tặng quyển sách tranh phong cảnh hay tranh nghệ thuật nước ta là đủ, còn đối với những nước phương Đông như Trung Quốc, Nhật hay Hàn Quốc thì lại nên có quà, chủ yếu là những đồ thủ công mỹ nghệ đẹp bền, còn đối với các nước theo đạo Hồi thì chớ tặng tranh vẽ người, động vật.

Nói chung, trong lễ tân ngoại giao, để bảo đảm cho mọi việc trôi chẩy có lẽ cần tuân thủ hai phương châm cơ bản; một là, phải có kế hoạch rất tỷ mỉ và phải kiểm tra kỹ lưỡng từng ly từng tí một, xểnh ra là “sai một ly đi một dặm”, có thể để lại những hệ quả khôn lường; hai là, cố dự liệu nhiều phương án khác nhau, kể cả tình huống xấu nhất, bất ngờ nhất để có sẵn phương án xử lý.

Nếu kể ra những chuyện cười ra nước mắt về lễ tân mà tôi đã gập phải trong đời để rút ra những phương châm ngắn gọn nói trên có lẽ phải mất hàng trăm, hàng nghìn trang giấy. Để xả hơi, tôi xin kể ra đôi ba chuyện.

Năm 1956 ở Hung-ga-ri nổ ra cuộc nổi loạn "phản cách mạng". Với sự trợ giúp của Liên Xô, một chính quyền mới được thành lập bao gồm chủ yếu là các nhà lão thành cách mạng đã từng tham gia cuộc Cách mạng năm 1918 ngay sau Cách mạng tháng Mười Nga. Sau khi tình hình tạm ổn, một đoàn đại biểu cấp cao của chính quyền mới do Thủ tướng Ferenc Munich dẫn đầu đi thăm các nước bạn bè để cảm ơn, trong đó có nước ta. Lúc đó ở ta chưa có phiên dịch tiếng Hung nên phải dùng phiên dịch tiếng Nga và tôi được cử đi phục vụ đoàn. Đoàn xuống thăm Hải phòng rồi ra Quảng ninh; cùng đi có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Lãnh đạo Hải phòng đã mở tiệc chiêu đãi đoàn và đương nhiên có món hải sản là cá hấp maionese. Chính món này là tác nhân làm cho cả đoàn bị...tháo tỏng, trừ ông trưởng đoàn thoát nạn vì ông không ăn cá. Tới Quảng ninh, tình hình nghiêm trọng đến nỗi không còn đủ chỗ để đi ngoài (lúc ấy Khách sạn Hạ long chỉ có nhà xí công cộng ở đầu hồi), đành phải đặt ngửa chiếc bàn ping-pông rồi đổ tro lên để mọi người chổng mông ngồi xung quanh xả ra. Từ đó tôi rút ra kinh nghiệm là không bao giờ nên mời khách ăn những món "đặc sản", nhất là hải sản lại để trong tủ lạnh.

Năm 1973 tôi theo Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh qua Mát-xcơ-va sang Paris dự lễ ký kết Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Khi ra sân bay Vnukovo ở Mat-xcơ-va, chúng tôi ngồi mãi trên máy bay nhưng không thấy cất cánh mà bên sân bay Orly sẽ có rất nhiều quan chức, phóng viên, bà con Việt Kiều...tập hợp để đón đoàn; sang chậm có thể gây ra những sự đồn đoán bất lợi. Ông Trinh bảo tôi xuống máy bay xem có chuyện gì trục trặc; khi tôi xuống thì các ông lãnh đạo ĐSQ cứ lảng đi, một mực không muốn nói chuyện với tôi. Phải gặng hỏi mãi mới biết anh cán bộ lãnh sự của ĐSQ đi lấy hộ chiếu tại ĐSQ Pháp tới nay vẫn chưa thấy ra sân bay và không biết làm cách nào liên lạc được (lúc đó chưa có điện thoại di động). Tôi lên máy bay báo cáo ông Trinh về ngọn nguồn. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy "giận tím mặt" là thế nào! Thứ trưởng Ngoại giao Liên Xô Firubin trực tiếp gọi điện thoại hỏi Đại sứ Pháp thì được trả lời rằng, đã cấp visa từ sáng sớm rồi; còn ông Phó Ban thứ nhất Ban Đối ngoại TW Đảng Rakhmanin chỉ thị cho công an kiểm tra xem có xe ngoại giao nào mang số 84 là số của ĐSQ Việt Nam bị nạn không thì được trả lời là không. Ông Rakhmanin phải lên máy bay nói chuyện trên trời dưới đất với ông Trinh để ông ấy đỡ sôi me. Hàng tiếng sau mới thấy anh cán bộ lãnh sự ĐSQ hớt hải chạy ra đưa vội hộ chiếu cho đoàn. Hóa ra anh ta đi nhầm sân bay, thay vì ra sân bay Vnukovo thì anh ta đã ra sân bay quốc tế Sheremetievo cách đó hơn 100 km mà đường mùa Đông đầy tuyết phải mất hàng tiếng đồng hồ mới sửa được sự nhầm lẫn tai hại của mình! Câu chuyện tầy đình này càng cho thấy bao giờ cũng phải nắm rất rõ địa chỉ nơi mình đến.

Trong lần đi dự Hội nghị quốc tế thông qua Định ước để bảo đảm cho Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam tôi lại gập trục trặc với ĐSQ ta ở Mát-xcơ-va. Số là lúc đó sắp đến Tết ta, ông Trinh yêu cầu mang theo 5 cành đào để tặng cho 2 Đoàn cũng như cơ quan đại diện ngoại giao miền Bắc và miền Nam, bà con Việt Kiều ở Paris. Đích thân tôi mang những cành đào đó lên máy bay ở Hà-nội nhưng đến Paris chỉ còn 3 cành! Vậy đi đâu mất 2 cành, chẳng nhẽ rơi ra ngoài trời à? Tôi bèn đánh telex sang Mát-xcơ-va hỏi; quả nhiên ĐSQ ở đó đã tự ý lấy 2 cành cho 2 cơ quan đại diẹn ở Liên Xô mà không hề báo cáo Đoàn. Lại nữa, sang tới nơi thấy mất va-li của một đồng chí đại tá của ta sẽ từ Paris vào Sài gòn để tham gia Ban liên hiệp đình chiến. Hỏi ra mới biết ĐSQ ta ở Mát-xcơ-va đã lấy nhầm va-li của anh ta vì nghĩ rằng đó là hành lý của một anh cùng tên đi nhờ máy bay! Để kịp cho đồng chí đại tá rời Paris đành phải mua quần áo mới.

Năm 1991 sau khi Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm và tôi sang thăm Trung Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quôc Tiền Kỳ-tham sang đáp lễ. Đây là chuyến thăm đầu tiên của Ngoại trưởng Trung Quốc sang ta. Đương nhiên ta rất coi trọng chuyến thăm, vả lại quan hệ Việt-Trung còn đang trong quá trình bình thướng hoá trở lại sau hơn một chục năm sóng gió, do đó ta càng chuẩn bị chu đáo. Dè đâu đang hội đàm thì điện tắt phụt, Nhà khách 12 Ngô Quyền lại không chuẩn bị sẵn máy nổ nên phải dừng hội đàm mất một lúc khá lâu, chúng tôi tái cả người, không biết bạn có hiểu lầm không? Sau đận đó đành phải cách chức anh chàng phụ trách Nhà khách.

Những chuyện như vậy thì không sao có thể lường trước được; bí quyết chỉ là phải hết sức tỷ mỷ, kiểm tra đi kiểm tra lại nhiều lần đối với mọi việc, dù là nhỏ nhất, cố hình dung và dự tính các tình huống khác nhau trong khả năng có thể; nếu xẩy ra những tình huống bất ngờ thì nhanh trí xoay xở mà thôi.

Đó là những chuyện sơ xuất của ta, còn phía bạn cũng có khi sơ xuất. Đã từng xẩy ra trường hợp bạn cử quốc ca của chính quyền Sài gòn đón đoàn miền Nam của ta chỉ vì ở xa, không có thông tin, ta lại chưa có cơ quan đại diện tại chỗ, không có đoàn tiền trạm sang. Những nghi thức lễ tân có khi phản ánh thái độ chính trị nhưng có khi chỉ là sơ xuất kỹ thuật, vô tình hay do thông lệ của bạn khác của ta, ta chẳng nên quá câu nệ ảnh hưởng đến quan hệ ở tầm quốc gia. Trên thực tế đã từng xẩy ra sự căng thẳng chỉ vì nghi thức lễ tân không khớp nhau do mỗi nước có luật lệ và tình huống khác nhau.

Có lẽ Bộ Ngoại giao ta nên tổ chức cho anh chị em trong ngành, nhất là các đồng chí đã nghỉ hưu viết lại những mẩu chuyện “cười ra nước mắt” ấy không chỉ để cười vui mà chủ yếu để các thế hệ hiện nay và mai sau rút kinh nghiệm.

Lều văn Thăng Sắc :

- Cám ơn anh Vũ Khoan đã “bật mí” nhiều “bí kíp” của công tác lễ tân ngoại giao. Để những kinh nghiệm quý báu không bị “thất truyển” như lời của một bạn đọc, trong khi chờ Bộ Ngoại giao tổ chức như gợi ý của anh Vũ Khoan, Lều văn Thăng Sắc rất mong nhận được những chia sẻ “tự phát” của các anh các chị đã từng làm lễ tân, kể cả những câu chuyện “cười ra nước mắt” để mọi người có dịp vừa cười vừa học.