Thursday, December 16, 2010

NGHIÊN CỨU CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA HỒ CHÍ MINH

ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NHÀ
KHOA HỌC NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI
VIỆC NGHIÊN CỨU CUỘC ĐỜI VÀ
SỰ NGHIỆP CỦA HỒ CHÍ MINH

Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử nổi bật của thế kỷ XX, được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu.Vì vậy, tìm hiểu việc nghiên cứu Hồ Chí Minh của những nhà nghiên cứu nước ngoài, không chỉ bổ sung cho chúng ta nguồn tài liệu và những kiến giải về Hồ Chí Minh mà còn hiểu rõ hơn thái độ, quan điểm khác nhau của nước ngoài đối với Việt Nam và Hồ Chí Minh, đặt cơ sở cho việc xác lập một ngành khoa học mới- Hồ Chí Minh học.

Chúng ta biết rằng, sự hình thành và phát triển của bất cứ một ngành khoa học nào cũng đều trải qua một quá trình lâu dài với những chặng đường kế thừa và phát triển. Việc nghiên cứu về Hồ Chí Minh cũng như vậy. Trước 1945, tài liệu về Nguyễn Ái Quốc chỉ có trong hồ sơ của mật thám Pháp. Sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, việc nghiên cứu Hồ Chí Minh, với tư cách một nhà chính trị, mới phát triển ở các nước, trước hết là Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ, Pháp, Nhật Bản..Hơn nữa đối với ngành khoa học xã hội, quá trình nghiên cứu thường diễn ra những cuộc đấu tranh về học thuật và tư tưởng, được xem như một biểu hiện của những quan điểm khác nhau, đối lập nhau trong khoa học. Bởi vì, như V.I Lênin đã khẳng định: “trong xã hội có giai cấp không thể có khoa học xã hội vô tư”(1) Cái gọi là “khách quan chủ nghĩa”, “phi đảng” trong nghiên cứu khoa học xã hội nói chung, nghiên cứu về Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng, mà một số tác giả nước ngoài thường nêu chỉ nhằm che đậy ý đồ chính trị của họ. Trên cơ sở những tài liệu được phát hiện, nhưng cũng có không ít tài liệu được “dựng lên”, bị xuyên tạc, một số nhà nghiên cứu phác họa và giải thích một cách chủ quan, phiến diện. Tuy nhiên, ở mỗi công trình nghiên cứu về Việt Nam, Hồ Chí Minh, chúng ta cũng có thể tìm được nhiều tài liệu – sự kiện và lý giải khoa học. Bài viết này chỉ giới hạn ở việc tìm hiểu những đóng góp khoa học của những nhà nghiên cứu nước ngoài về Hồ Chí Minh.

Trong nghiên cứu lịch sử nói chung, lịch sử Đảng nói riêng các nhà khoa học Việt Nam công khai nói rõ tính đảng cộng sản của mình. Đối với chúng ta “tư duy lí luận của mỗi thời đai (mỗi giai cấp).. tức là sản phẩm của lịch sử, ở các thời đại khác nhau có những hình thức rất khác nhau, đồng thời lại có những nội dung rất khác nhau (trái ngược nhau)”(2). Cần khẳng định rằng, thể hiện tính đảng cộng sản, đứng vững trên các nguyên tắc phương pháp luận mácxít- lêninnít và tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã tiếp cận chân lí lịch sử khách quan; tuy trong công tác khoa học còn có những thiếu sót về tư liệu, phương pháp … Đó là những thiếu sót do chưa có sự thống nhất tính đảng và tính khoa học trong nghiên cứu. Song không vì vậy mà quy kết một cách thiếu thiện chí rằng, những tài liệu về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh của những nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam là tài liệu “bịa đặt”, “sai lạc”, “cục bộ”, “có dụng ý tuyên truyền, không chuyên nghiệp, ít trung thực và nhất là thiếu lương thiện, tri thức”(3)(có thể hiểu là tài liệu thiếu chính xác- chúng tôi chú thích TĐT,NĐL). Bởi vì, các nhà khoa học Việt Nam hiểu rằng chỉ khi nào hiểu biết đúng về con người, cuộc đời, sự nghiệp của Hồ Chí Minh mới có thể học tập và làm theo tấm gương của Người. Không có tác dụng giáo dục nào lớn bằng việc nêu đúng “người thật, việc thật”.

Với nhận thức như vậy, chúng tôi điểm qua đôi nét về tinh hình nghiên cứu ở một số nước để từ đó rút ra những đóng góp của các nhà khoa học nước ngoài đối với việc tìm hiểu về Hồ Chí Minh. Chúng tôi dùng “nghiên cứu ở nước ngoài” mà không dùng “các nhà nghiên cứu nước ngoài”; bởi vì trong số những người nghiên cứu Hồ Chí Minh ở nước ngoài có cả những nhà nghiên cứu các nước và không ít những người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài.

Số lượng người nghiên cứu Hồ Chí Minh, những cuốn sách, bài viết về Hồ Chí Minh của các tác giả nước ngoài đến nay vẫn chưa xác định được chính xác và đầy đủ. Tuy vậy, đến đầu thế kỷ XXI “theo con số thống kê, cho đến nay đã có trên 200 tác phẩm và các công trình nghiên cứu, hàng trăm tạp chí, hàng ngàn bài báo của các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, triết học, tâm lí học, nhân chủng học, văn hóa học, các nhà thơ, các phóng viên của các tờ báo lớn trên thế giới…viết về Hồ Chí Minh”(4).

Các tác giả và công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh ở nước ngoài cũng rất đa dạng về chuyên ngành, với nhiều mầu sắc, khuynh hướng chính trị với những mục đích, ý đồ khác nhau. Có thể xem đây là một cuộc chiến trên mặt trận tư tưởng giữa những người ủng hộ và chống lại nhân dân Việt Nam trong và sau cuộc đấu tranh thắng lợi cho độc lập, tự do và tiến bộ xã hội.

Nếu kể cả những ý kiến, câu nói hồi kí của các nhà chính trị và hoạt động xã hội trên thế giới, theo GS. Phan Ngọc Liên, có thể thấy rõ có các loại tác giả sau đây viết vê Hồ Chí Minh:

Thứ nhất- Những đồng chí, bạn bè của nhân dân Việt Nam và Hồ Chí Minh, đã có những đóng góp nhiều tài liệu quý báu, những nhận định đúng đắn về Hồ Chí Minh, ghi lại những mối quan hệ, trong hoạt động cách mạng, quen biết, gặp gỡ Hồ Chí Minh. Phần lớn các công trình này là những hồi ký, hồi ức. Loại tài liệu này thể hiện sự chân thực, tình cảm sâu đậm của bạn bè, đồng chí nên rất hấp dẫn, đáng tin cậy, không chỉ có giá trị khoa học (tuy có thể có sự nhầm lẫn, sai sót vì trí nhớ, vì thời gian quá lâu) mà có ý nghĩa tư tưởng, tình cảm cao đẹp. Người đọc, người nghe loại tài liệu này thật khó phân biệt “chỗ nào là văn học, chỗ nào là sử học”; bởi vì tính khoa học, tính nghệ thuật, tính tư tưởng đan xen vào nhau một cách nhuần nhuyễn, thể hiện tính chân thực, với sự rung cảm và thuyết phục lớn.

Trong loại tài liệu này, chúng ta có thể kể tới những trang hồi ký đầy xúc động về Hồ Chí Minh của những người bạn quốc tế của Người, như Giắc Duyclô, Phrăngxoa Bi-u, Giannét Vecmêt Tôrê (Pháp), Tiêu Tam (Trung Quốc), Akimôva (Liên Xô)…(5)

Thứ hai, những nhà nghiên cứu lịch sử, chính trị, văn hóa…khá đông, rất đa dạng và phức tạp về quan điểm, khi viết về Việt Nam và Hồ Chí Minh.

Trước hết chúng ta phải kể đến “Nghị quyết của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) về kỉ niệm 100 năm sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Vị anh hùng dân tộc của Việt Nam và là một nhà văn hóa lớn (1990)”. Đây là sự tôn vinh của thế giới đối với Hồ Chí Minh, hơn nữa đối với một người Cộng sản đầu tiên được tổ chức quốc tế này công nhận. Điều này thể hiện công lao, sự n ghiệp của Hồ Chí Minh là không thể phủ nhận được, song cũng có sự đóng góp của các nhà nghiên cứu (Việt Nam và thế giới) làm cơ sở cho quyết định của UNESCO một cách khách quan, đúng đắn.

Chúng ta hoan nghênh Nghị quyết của UNESCO là sự khái quát khá đầy đủ, chính xác công lao to lớn của Hồ Chí Minh:

“Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất vè quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

…Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hành ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau…”.

Sự đánh giá như vậy là đúng và cao, song theo chúng tôi vẫn xem là chưa đầy đủ. Nhiều nhà sử học đã chứng minh rõ ràng, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà con hoạt động trên một địa bàn rộng ở nhiều nước trên thế giới góp phần cho độc lập dân tộc và tiến bộ của các nước và nhân loại nói chung. Người luôn gắn cuộc đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình với cách mạng thế giới vì giải phóng các dân tộc bị áp bức, vì tiến bộ xã hội. Do đó, Hồ Chí Minh không chỉ là “vị anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam ”, “một nhà văn hóa lớn” mà còn là một chiến sĩ cách mạng quốc tế(6). Điều này đã được nhiều người khẳng định rằng Hồ Chí Minh là “một lãnh tụ thế giới vào lúc loài người đang ở bước ngoặt có tính chất cách mạng nhất.. là một nhà kiến trúc và tạo hình làm nên quá trình cách mạng thế giới” (Gốt Hôn)(7).

Nhiều nhà nghiên cứu cách mạng và tiến bộ trong các chuyên khảo về cuộc đời, sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã cung cấp khá nhiều tài liệu và nhận định xác thực, làm sáng tỏ hơn về những công lao, đóng góp to lớn của Người cho cách mạng Việt Nam và thế giới.

X. Aphônin và E. Côbêlép (Liên Xô) trong quyển “Đồng chí Hồ Chí Minh ”, một tiểu sử chính trị, đã xem Hồ Chí Minh là một trong những nhà cách mạng kiệt xuất “trước hết là người con của dân tộc mình, người anh hùng dân tộc của đất nước mình. Bởi vì ý nghĩa quốc tế của những con người như vậy trong bất cứ cuộc cách

mạng giải phóng dân tộc và xã hội nào cũng là thành tựu vô giá đối với phong trào cách mạng thế giới. Trong một mức độ đầy đủ, điều này rất đúng với Hồ Chí Minh”(8).

X. Aphônin và E. Côbêlép sau khi trình bày cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Aí Quốc-Hồ Chí Minh, đã rút ra một số kết luận khái quát mà chúng tôi xem là những gợi ý để tiếp tục đi sâu hơn trong việc nghiên cứu Hồ Chí Minh. Đó là:

Thứ nhất, Hồ Chí Minh nhận thức về vai trò lịch sử của Đảng Cộng sản trong đấu tranh giành độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, về việc vận dụng một cách sáng tạo chủ ngiã Mác- Lênin vào Việt Nam cũng như các nước khác cùng hoàn cảnh để tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với đặc điểm mỗi nước. Luận điểm này vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay, nếu các nước được giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc tiến tới xây dựng một xã hội giàu mạnh, văn minh và tiến bộ.

Thứ hai, trong đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế tạo nên sức mạnh chiến thắng. Hồ Chí Minh đã cống hiến cho dân tộc và nhân dân bị áp bức những kinh nghiệm quý về chiến lược đại đoàn kết, về xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ từng thời kỳ lịch sử mà không chệnh mục tiêu chiến lược. Người là hiện thân của sự kết hợp hài hòa giữa lòng yêu nước chân chính với tinh thần quốc tế, cho sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Thứ ba, Hồ Chí Minh tượng trưng cho tinh thần cách mạng triệt để, song lại là biểu tượng về chủ nghĩa nhân văn cách mạng – sự kết hợp giữa lòng thương người truyền thống của dân tộc với chủ nghĩa nhân đạo cộng sản chủ nghĩa.

Thứ tư, Hồ Chí Minh đã tiếp tục và phát huy mọi giá trị truyền thống của dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại, mà lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ bản, đã góp phần xây dựng nền văn hóa mới, CON NGƯỜI chân chính, được viết bằng chữ in hoa.

Những kết luận- khái quát trên dẫn tới sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ về Hồ Chí Minh

- Con người chân chính, vừa là người con yêu của dân tộc vừa là lãnh tụ tài ba của nhân dân thế giới- tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa các mối quan hệ giữa dân tộc, giai cấp và quốc tế.

- Nhà cách mạng, nhà thơ, học giả, nhà đạo đức.

Kết luận các tác giả xô viết khẳng định rằng, trong tư duy cũng như trong hành động, trong mọi đường lối, chủ trương chính sách của Người đã đề xuất với Đảng và Nhà nước, độc lập dân tộc không hề mâu thuẫn với nhau mà thống nhất trong mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh”(9).

Hoàng Tranh ** (Trung Quốc) trong Hồ Chí Minh với Trung Quốc thông qua tài liệu về mối quan hệ của Hồ Chí Minh với nhân dân và những nhà cách mạng Trung Quốc nói lên sự đóng góp của Người đối với việc xây dựng tình hữu nghị giữa hai dân tộc Trung Quốc, Việt Nam, đối với thắng lợi của cách mạng hai nước.

Giáo sư Nhật Bản Singô Sibata trong quyển Betomomuto Shiro momodoj, Tokyo “Aore Shoden”, 1972 “Hồ Chí Minh , một nhà tư tưởng ” đã mạnh mẽ bác bỏ những quan điểm, luận điểm cho rằng Hồ Chí Minh chỉ là một nhà cách mạng thực tiễn, một người thực dụng lấy chủ nghĩa cộng sản làm phương tiện để “nắm quyền cai trị độc tài”. Ông chứng minh rằng, Hồ Chí Minh là nhà lý luận tài giỏi trên mọi lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, tư tưởng … Lý luận của Người được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác- Lênin, song là sự phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin trong thời đại ngày nay. Ví như, Singô Sibata đã đánh giá cao Đảng và Hồ Chí Minh đã “khai phá”, tìm kiếm con đường đi đến chủ nghĩa xã hội đích thực: “Một trong những cống hiến quan trọng của cụ Hồ Chí Minh và của Đảng Lao động Việt Nam (tên gọi của Đảng Cộng sản Việt Nam trong những năm 1951-1976- chúng tôi chú TĐT, NĐL) là đã đề ra lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi vẫn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, chứ không phải như lâu nay nhiều người vẫn quan niệm là phải xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi chiến tranh chấm dứt”. Singô Sibata đã nêu một số luận điểm mà chúng ta cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Đó là: “Trước hết chúng ta phải thấy rằng những cống hiến của Hồ Chí Minh đã góp phần đào sâu và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin đối với các vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Tác giả Nhật Bản đã khẳng định rằng “Những cống hiến của Hồ Chí Minh đã thực sự mở ra một giai đoạn mới trong những lý luận về dân tộc và thuộc địa”. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc trong quá khứ, mà vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay. Bởi vì, sau khi thoát khỏi ách đô hộ của bọn thực dân, tư bản, đế quốc, trong xây dựng và phát triển đất nước các dân tộc phát triển luôn đứng trước nguy cơ chủ nghĩa thực dân mới tìm mọi cách, với nhiều hình thức khác nhau, như thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, mượn danh nghĩa những vấn đề về “nhân quyền” để xâm phạm chủ quyền dân tộc các nước, tăng cường sức ép về kinh tế, chính trị, quân sự, thậm chí khoác áo “chống khủng bố quốc tế” để tiến hành chiến tranh xâm lược.

Từ đó, Singô Sibata, rút ra kết luận: có rất ít người mácxít như Hồ Chí Minh sinh ra ở một nước thuộc địa và bản thân trải qua cuộc sống ở Tổ quốc và nhiều nước khác- những nước tư bản đế quốc, thuộc địa và phụ thuộc, đất nước xôviết. Vì vậy sự am hiểu của Người về chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa xã hội… rất sâu sắc và Người thực sự đã đóng góp cho cách mạng thế giới. Điểm nổi bật ở Hồ Chí Minh mà Singô Sibata nhấn mạnh và chúng ta cần tiếp tục đi sâu hơn là: “Cống hiến nổi tiếng của Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình và tất cả mọi dân tộc có thể và phải thực hiện nền độc lập, tự chủ”(10).

Những luận điểm của Singô Sibata nêu trên gợi ý cho chúng ta tiếp tục nghiên cứu sâu sắc, toàn diện hơn trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, các dân tộc cần hội nhập quốc tế và khu vực cần vẫn phải giữ vững chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc.

Một vấn đề khác cần lưu ý là Hồ Chí Minh đã xây dựng những nguyên tắc dân chủ, đoàn kết trong Đảng để “xây dựng tác phong của đảng viên, xây dựng thái độ của Đảng đối với nhân dân”(11). Đây là một vấn đề rất quan trọng và cấp thiết khi Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền, nhất là khi chúng ta đang “Học tập tư tưởng và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Ngoài ra, Singô Sibata cũng nêu một vấn đề có ý nghĩa thời sự Hồ Chí Minh luôn luôn có ý thức vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin trong thời đại ngày nay- thời đại độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hôị.

Furuta Motoo (Nhật Bản) trong cuốn “Hồ Chí Minh giải phóng dân tộc và đổi mới” do Nhà xuất bản I Wanami ấn hành tháng 2-1996, đã thông qua việc trình bày hoạt động của Hồ Chí Minh để làm nổi bật chân dung của Người trong

đấu tranh giải phóng dân tộc và đặt cơ sở cho quá trình thực hiện công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Tác giả khẳng định: “… Hồ Chí Minh là vĩ nhân của thế kỷ XX” và khẩu hiệu “Chủ tịch Hồ Chí Minh sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta” sẽ không phải là những từ ngữ hạn chế sự cầu thị của người Việt Nam mà còn có tác dụng vươn tới cùng thực hiện nhiệm vụ mang tính toàn cầu của nhân loại trong thế kỷ XXI”(12).

Furuta Motoo qua tác phẩm của mình đã nêu một vấn đề mà ngày nay là nhiệm vụ trọng tâm của nước ta. Đó là: đấu tranh giải phóng dân tộc để xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ bằng công cuộc đổi mới đất nước. Tác giả Nhật Bản này gợi cho chúng ta một chủ đề đi sâu nghiên cứu là giải phóng dân tộc và đổi mới đất nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội đối với Hồ Chí Minh không phải là hai giai đoạn nối tiếp nhau, khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc mới tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội mà những nhiệm vụ và dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội phải đan xen nhau và ở mỗi giai đoạn mà có vị trí trọng tâm trong nhiệm vụ cách mạng. Đây là điều xuyên suốt trong hoạt động của Hồ Chí Minh, khi thống nhất về mục tiêu, phương hướng đấu tranh từ cách mạng giải phóng dân tộc lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn và kí luận này không chỉ có ý nghĩa với Việt Nam mà cả đối với các nước đang phát triển hiện nay.

Những người cộng sản Pháp, vốn có cảm tình đặc biệt với Hồ Chí Minh đã có đánh giá xác đúng và đóng góp nhiều kết quả nghiên cứu khoa học về Người. Charles Fourniau đã chỉ rõ rằng, việc Hồ Chí Minh từ một thầy giáo yêu nước trở thành một người lao động, một công nhân, tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin, trở thành người Cộng sản đầu tiên “tưởng chừng như đơn giản và tự nhiên. Thực ra, đó là chặng đường chiến thắng với biết bao sự lựa chọn vững chắc, tránh được sai lầm dẫn tới ngõ cụt”(13). Phát hiện này rõ ràng chứng minh điều mà Hồ Chí Minh đã khẳng định: chính từ lòng yêu nước, Người đến với chủ nghĩa cộng sản.

Đại hội 19 của Đảng Cộng sản Pháp (1970) đã nêu một vấn đề mà chúng ta cần đi sâu tìm hiểu: Hồ Chí Minh là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp đi theo phương hướng chống chủ nghĩa thực dân rõ rệt, xây dựng truyền thống đoàn kết của Đảng với nhân dân thuộc địa.

Ngoài những ý kiến của nhà nghiên cứu có trình độ khoa học, có lương tâm và tình cảm đúng với Việt Nam, Hồ Chí Minh, chúng ta cũng tìm thấy trong nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học nước ngoài những vấn đề có khía cạnh đúng cần tham khảo, có những ý kiến chưa thật chính xác, toàn diện cần nói rõ về những điều xuyên tạc, vu cáo có tính chất bôi nhọ, hạ thấp công lao, bản chất của Hồ Chí Minh cần tiến hành bác bỏ.

Việc tìm hiểu về Hồ Chí Minh ở phương Tây đã có từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 nhằm tìm đáp số cho câu hỏi được đặt ra lúc bấy giờ “Hồ Chí Minh là ai?” đặc biệt từ năm 1970, sau khi Người qua đời việc nghiên cứu phát triển nhiều. Chúng ta đã làm quen với các tác giả và công trình về Hồ Chí Minh ở Pháp, Mỹ…; nổi bật là Jean Lacouture – Ho Chi Minh (Ed Seuil, Paris, 1967), C,P. Ragiơ – “Ho Chi Minh” (Ed. Presses universitaires, Paris, 1970), David Hamberstam – Ho (Randoom House, New York, 1971), Daniel Hémery – Ho Chi Minh de l’ Indochine au Vietnam (Decouvertes Gallimard, Histoire, 1990), Hypersion, New York, 2000; Sophie Quinn – Judge – Ho Chi Minh, The Missing Years (Horizon Books, Singapore, 2003)…

Nhìn chung, những nhà nghiên cứu này đều muốn tìm hiểu sự thật về cuộc đời và hoạt động của Hồ Chí Minh và theo họ, cố gắng tránh việc nhận thức lịch sử bị khúc xạ thông qua một lăng kính chính trị làm mất tính khách quan khoa học. Chúng ta hoan ngênh ý kiến này và sẽ hợp tác để nghiên cứu, nhất là việc trao đổi tài liệu. Một vài tài liệu được các nhà nghiên cứu nước ngoài phát hiện có giá trị khoa học chúng ta đã tiếp nhận, song cũng có những tài liệu “giả, rởm” luận điểm sai trái, cần bác bỏ những cách lí giải không đúng, thậm chí cố tình xuyên tạc. Xin dẫn một vài dẫn chứng: J. Duiker, nhà nghiên cứu Mỹ, đã thực hiện chủ đích của mình trong việc “thể hiện đặc điểm đầy kịch tính về cuộc đời Hồ Chí Minh và tầm quan trọng của những kịch tính đó trong việc hình thành lịch sử Việt Nam và của thế kỉ XX”(14). Sophie Quinn Judge đã bỏ nhiều công sức trong việc sưu tập tài liệu, đặc biệt ở kho Lưu trữ của Quốc tế Cộng sản. Công trình của bà tập trung vào những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) “từ 1919, khi anh lần đầu nổi lên ở Paris với bí danh Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn – người yêu nước) cho đến năm 1941 và chiến tranh thế giới thứ hai, khi mối quan hệ với Quốc tế Cộng sản thực tế đã chấm dứt”. Những tài liệu mà Sophie Quinn Judge sưu tầm được nó rất quý với chúng ta và cần trân trọng là vì “mục đích của việc nghiên cứu này không phải là phá hỏng uy tín của Hồ mà xác định càng thực tế càng tốt những gì anh đã làm trong những năm ở Quốc tế Cộng sản. Đây là những năm phải ngụy trang và bí mật; vì vậy cũng dễ hiểu khi họ tăng thêm phần huyền thoại về Hồ như kiểu Fhăng- tô- mát”(15).Song trong thực tế, ý định và mục đích tốt đẹp này chưa được thực hiện đúng và đầy đủ.

Cả W. J. Duiker lẫn Sophie Quinn Judge, cũng như nhiều nhà nghiên cứu phương Tây về Hồ Chí Minh đều “mong muốn có thái độ khách quan” khi xem xét nguồn tư liệu nhằm tìm hiểu “những bí ẩn bao phủ quanh Hồ Chí Minh”. Vì vậy, họ cũng đặt cho mình nhiệm vụ “vạch trần bệnh sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh”, thể hiện trong các tài liệu biên soạn ở Việt Nam. Và theo họ, những tài liệu này “đều đã mất giá trị bởi những nỗ lực nhằm thần thánh hóa một vị thánh hơn là một nhân vật chính trị, có tính chất một biếm họa hơn là một thực tế”(16).

Chúng ta hoan nghênh các nhà nghiên cứu phương Tây đã phát hiện và đóng góp một số tài liệu quý về Hồ Chí Minh. Song điều quan trọng là xác định được tính chất chân thực, cơ bản, điển hình của tài liệu- sự kiện đối với nghiên cứu. Chúng ta có thể dẫn ra không ít tài liệu được sử dụng của các nhà nghiên cứu phương Tây về Hồ Chí Minh đi sâu, khai thác đời tư của nhân vật, đưa ra những sự kiện “giật gân”, thậm chí xuyên tạc, bóp méo, bịa đặt, như việc đưa tin “Hồ Chí Minh bán đứng Phan Bội Châu cho Pháp để lấy 25.000 phơrăng, nhằm gây quỹ cho tổ chức của mình và để thủ tiêu một lực lượng dân tộc chủ nghĩa lớn, thu hút được đông đảo quần chúng”.

Hơn nữa, việc hiểu sự kiện để tiếp cận với chân lý được phản ánh trong tài liệu sự kiện mới là điều kiện chủ yếu. Song không phải tài liệu nào cũng phản ánh đúng sự kiện, bởi vì giữa hiện thực khách quan với tài liệu bao giờ cũng có con người phản ánh hiện thực thông qua chủ quan của mình. Một số sự kiện được nêu có vẻ khách quan, nhưng khi giải thích, khái quát, kết luận lại bộc lộ tính chủ quan, phiến diện không phản ánh đúng sự thật. Ví như, W. J. Duiker căn cứ vào một số tài liệu không xác thực, thậm chí bị xuyên tac để đưa ra những kết luận, nhận định không đúng về “quyền lực và uy tín ngày càng giảm sút của Hồ Chí Minh”, về “việc chia rẽ, tranh giành quyền lực giữa các phe phái trong Đảng Cộng sản Việt Nam …”, về thái độ “quả lắc” của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam, Chính phủ Việt Nam giữa hai thế lực mâu thuẫn, xung đột nhau Liên Xô- Trung Quốc”… Từ những nhận định sai lệch, ông đã dự báo rằng: “Rất khó duy trì sự sùng bái ông Hồ trong tương lai. Có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy, dù hầu hết thanh nien Việt Nam tôn trọng Hồ Chí Minh vì những đóng góp của ông cho sự nghiệp giành độc lập và thống nhất đất nước, nhiều người không còn coi ông là nhân vật trong tâm hồn đời sống của họ”(17). Những lý giải như vậy đã đi ngược lại sự thực buộc chúng ta phải làm sáng tỏ bằng những tài liệu- sự kiện chân thực.

Có nhiều vấn đề cần thảo luận, trao đổi để nhận thức đúng về Hồ Chí Minh mà các tác giả phương Tây đã đề cập đến, ở đây chúng ta chỉ dẫn ra một số chủ đề lớn sau đây, cần tiếp tục nghiên cứu đúng đắn.

Một là, động cơ Hồ Chí Minh sang phương Tây; Hồ Chí Minh là nhà dân tộc chủ nghĩa hay người cộng sản. Không ít tác giả phương Tây không phủ nhận Hồ Chí Minh là nhà yêu nước lớn, chiến đấu cho độc lập dân tộc, song lại cho rằng, Hồ Chí Minh sang phương Tây làm cách mạng vì “bất mãn” với việc Pháp cách chức cụ Nguyễn Sinh Sắc, vì “muốn làm quan”… Daniel Hémery khẳng định rằng: “Việc người cha bị cách chức, bị loại khỏi xã hội, chịu nhục nhã, phải tự nguyện lưu lạc vào Nam Kỳ đã thúc đẩy Nguyễn Tất Thành rời bỏ Tổ quốc ra đi năm 1911”(18). Về vấn đề này một số nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam đã trình bày và phân tích những nhận định không chính xác này.(19)

Một số tác giả khẳng định Hồ Chí Minh dùng chủ nghĩa cộng sản làm phương tiện để nắm quyền lực, “tranh giành ảnh hưởng, thế lực với những nhà dân tộc chủ nghĩa”. Về vấn đề này nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam đã vạch rõ nhận định sai lầm này, có ý tưởng không tốt, song cần tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để bác bỏ các luận điệu phi khoa học này.

Cũng có người tiếc rằng Hồ Chí Minh đã chọn chủ nghiã cộng sản để làm phương tiện hành động.., nếu không “ông vẫn tập hợp được đông đảo nhân dân chống Pháp”(20).

Hai là, quan hệ của Nguyễn Ái Quốc đối với Quốc tế Cộng sản. Vấn đề này được nhiều tác giả phương Tây đề cập, tập trung nhất trong quyển “Hô Chi Minh – The Mising years” (Hồ Chí Minh – Những năm tháng lưu lạc) của Sophie Quinn Judge đặc biệt ở chương 2 “Sự tuyển dụng của Quốc tế Cộng sản (1923-1924)” và chương 3 “Chết ở Hồng Kông, chôn ở Mátxcơva? (1931-1938)”. Tác giả nêu trên đã diễn tả quan hệ giữa Hồ Chí Minh và Quốc tế Cộng sản rất căng thẳng, đặc biệt những năm 1934-1938, “khó có thể tưởng tượng được việc người cộng sản lâu năm, như Hồ Chí Minh, có thể giữ được hoạt động của mình thế nào trong suốt thời kỳ điên loạn đó”. Như đã nói, chúng ta sử dụng có chọn lọc những tài liệu mà Sophie Quinn Judge sưu tầm và cung cấp để nghiên cứu, phải phân tích kỹ đối chiếu với nhiều nguồn tư liệu khác nhau để tránh sự suy diễn chủ quan, nên ngộ nhận sai sự thật. Thời kỳ Hồ Chí Minh ở Liên Xô (1934-1938) vẫn còn là vấn đề cần tiếp tục làm sáng tỏ để nhận thức đúng quan điểm…, vững chắc, ý thức kỷ luật, tinh thần tổ chức cao.

Ba là, quan hệ giữa Hồ Chí Minh với các đồng chí lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam. Vấn đề này, các tác giả phương Tây thường đi tìm tài liệu để suy đoán về “quyền lực và uy tín ngày càng giảm sút của Hồ Chí Minh”, về “cuộc xung đột giữa những người muốn giải phóng ngay miền Nam và những người chủ trương tập trung xây dựng mièn Bắc”… Đối với nhân dân Việt Nam thì điều này đã quá rõ ràng: Hồ Chí Minh là người thầy, người đồng chí thân yêu của tất cả các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước cũng như của toàn thể nhân dân Việt Nam.

Chiến thắng của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp rồi kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã xác nhận vai trò, uy tín tuyệt đối của Người. Sự đoàn kết toàn dân, toàn Đảng xung quanh Người và quyết tâm của các thế hệ Việt Nam theo con đường cách mạng mà Người vạch ra làm cho nhiều người nước ngoài hiểu rõ và bác bỏ hoàn toàn những nhận định sai lệch, có dụng ý xấu về chính trị của một số người cố ý xuyên tạc lịch sử. Trong số các nhà nghiên cứu khoa học, hoạt động chính trị, xã hội ở các nước có không ít người đã thừa nhận vai trò, uy tín, mối quan hệ vững chắc giữa Hồ Chí Minh với nhân dân, Đảng. W. J. Duiker nêu rõ: “Thắng lợi của cộng sản ở Sài Gòn là kết quả của lòng quyết tâm và sự lãnh đạo tài giỏi của nhà lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam – Lê Duẩn và những cộng sự kỳ cựu của ông ở Hà Nội. Một đóng góp không kém phần quan trọng là những đoàn quân Bắc Việt Nam và du kích Việt Cộng- những anh bộ đội giản dị (…) cả một thế lực những người chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp cách mạng trong những khu rừng rậm và đầm lầy ở mièn Nam Việt Nam. Nhưng quan trọng hơn cả là di sản và tầm nhìn, ý chí và sự lãnh đạo của một con người, Hồ Chí Minh …”.(21)

Bốn là, Hồ Chí Minh là một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc. Nhiều người thừa nhận Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước, có công to lớn trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, song lại “lên án” Hồ Chí Minh là “tay sai” của Quốc tế Cộng sản, của Mátxcơva, đã du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam, làm “lệnh hướng phát triển của lịch sử Việt Nam”. Tiêu biểu cho luận điệu này là ý kiến của Trương Vĩnh Kính trong quyển “Hồ Chí Minh tại Trung Quốc” (Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ nghĩa đích ngụy trang giả), nguyên tác tiếng Trung Quốc (Đài Bắc, Truyện kí văn học xuất bản, 1972), bản dịch tiếng Việt của Thượng Huyền (Văn nghệ xuất bản, California- USA, 1999). Trương Vĩnh Kính không thể phủ nhận công lao của Hồ Chí Minh trong việc lãnh đạo nhân dân Việt Nam kháng chiến đánh thắng thực dân Pháp (1945-1954) và đế quốc Mỹ (1954-1975) song lại kết luận rằng: “Hồ Chí Minh đã dùng số nhân dân và vật lực có hạn của ông để trước sau tiến hành cuộc chiến tranh trường kỳ với hai quốc gia đại công nghiệp, coi thường tính mạng của nhân dân. Đó là ông đã chiến đấu cho nền độc lập chân chính của Việt Nam ư? Hay là ông đã chiến đấu cho bản thân chính quyền cộng sản ?. Câu hỏi này tự nó đã bộc lộ suy nghĩ sai lệch của Trương Vĩnh Kính mà nhiều tác giả chống cộng đã nêu lên từ lâu: “Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã dùng chủ nghĩa cộng sản làm phương tiện nắm giữ chính quyền”.

W. J. Duiker cũng lúng túng trong việc giải thích mối quan hệ về chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản trong con người Hồ Chí Minh, dù phải khẳng định rằng: “người ta không thể phủ nhận điều này, sự nghiệp mà ông Hồ thúc đẩy và lãnh đạo đã tạo nên những thời điểm chưa hề có trong thế kỷ XX, thể hiện đỉnh cao của kỷ nguyên giải phóng dân tộc ở thế giới thứ ba và lần đầu tiên Mỹ phải công nhận sự hạn chế trong chính sách ngăn chặn cộng sản của mình. Sau Việt Nam, thế giới không bao giờ như cũ nữa”

Về mối quan hệ chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản ở Hồ Chí Minh, về vấn đề Hồ Chí Minh vừa là anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, vừa là chiến sĩ lỗi lạc quốc tế đã được nhiều nhà cách mạng, nhà khoa học, hoạt động chính trị, xã hội trong và ngoài nước Việt Nam đã chứng minh rõ. Song dù sao đây là vấn đề quan trọng, phức tạp trong tình hình hiện nay, khi chủ nghĩa tư bản dường như “thắng thế”, chủ nghĩa xã hội đang “khủng hoảng”, “suy yếu”. Chỉ nghiên cứu sâu sắc, đúng đắn về Hồ Chí Minh mới có thể lý giải xu thế “khuynh tả” đang diễn ra sôi nổi ở khu vực Mỹlatinh hiện nay, về một số nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản ở các nước nắm chính quyền…

Năm là, sự hợp tác giữa các nhà nghiên cứu Việt Nam với các nhà khoa học nước ngoài để sưu tầm tài liệu về Hồ Chí Minh, vì Hồ Chí Minh hoạt động ở nhiều nước trong điều kiện bí mật, bất hợp pháp, viết nhiều tài liệu bằng các thứ tiếng khác nhau, hiện đang thất lạc. Sự hợp tác của các nhà khoa học với tinh thần vô tư, chân thực, thiện chí mới có thể tiếp tục phát hiện nhiều tài liệu của Hồ Chí Minh chưa được biết đến.

Trong phạm vi bài viết tập trung vào tìm hiểu những đóng góp, gợi ý của các nhà khoa học nước ngoài, chúng tôi không thể trình bày về “công trình” của một số ít người viết vừa không có lương tâm, vừa không đủ trình độ để tim hiểu Hồ Chí Minh mà chủ yếu là “xuyên tạc”, “bịa đặt” lịch sử để bôi nhọ, hạ thấp vai trò của Người. Loại người này phần lớn là những kẻ chống cộng điên cuồng, những người Việt sống lưu vong, phản bội Tổ quốc. ý đồ, luận điệu của họ không khác gì “luận điệu tâm lí chiến’ mà CIA, ngụy quyền Sài Gòn đã từng dùng và bọn phản động ngưopừi Việt ở nước ngoài đang sử dụng. Chúng tôi đã hiểu quá rõ ý đồ của những Jean Francois Revel và nhưng người viết quyển “Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp”. Trương Vĩnh Kính với quyển “Hồ Chí Minh tại Trung Quốc – Một kẻ ngụy trang chủ nghĩa dân tộc Việt Nam ” và gần đây bổ sung vào đội ngũ này có Bùi Tín với các quyển “Hoa xuyên tuyết” và “Following Hồ Chí Minh – Memoirs of a North Vietnammese Colonel..’.

Đối với những người này, cần hỗ trợ nhau vạch trần ý đồ thâm hiểm của họ, nêu lên sự thực lịch sử để có sức mạnh đập tan mọi dối trá, xuyên tạc, bịa đặt. Đây không phải là việc tranh luận khoa học để tìm chân lý mà thực sự là một cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hóa. Không chỉ đối với Việt Nam mà còn lương tâm, trách nhiệm của tất cả các nhà khoa học chân chính trên thế giới.

Điểm qua một đôi nét về việc nghiên cứu Hồ Chí Minh ở một số nước, chủ yếu là những đóng góp, gợi ý chỉ có thể mang được thông tin nhỏ, không thể đầy đủ về vấn đề mưu chính trị xấu xa. Công việc này sẽ mở rộng việc trao đổi đối với các nhà khoa học có thiện chí với Việt Nam, những người yêu mến Hồ Chí Minh nhưng chưa hiểu nhiều về đất nước, con người Việt Nam và Hồ Chí Minh và cũng để tiếp nhận những kết quả nghiên cứu Hồ Chí Minh, nhất là về tư liệu (thông qua xử lí và chọn lọc) vào công việc tìm hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.

———–

CHÚ THÍCH

1. V.I Lênin: Toàn tập, tập 23,tr.180. Tiếng Nga.

2. C. Mác- Ph Ăngghen: Văn tuyển, quyển 2, tr.412, tiếng Nga.

3. Nhật Nam: Hồ Chí Minh – Những viễn cảnh mới nhìn từ hồ sơ của Quốc tế Cộng sản, Nghiên cứu và Đối thoại, giao điểm, 2-6-2003, tr.2, tập 17.

4. Nguyễn Văn Sáu (Chủ biên): Nghiên cứu ,giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, Nxb Lí luận chính trị, H, 2005, tr.161.

5. Phan Ngọc Liên: Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử dân tộc, Nxb CTQG, H, 2008.

6. Phan Ngọc Liên, Trịnh Vương Hồng (đồng chủ biên): Hồ Chí Minh – chiến sĩ cách mạng quốc tế, in lần thứ ba có bổ sung, Nxb QĐNxb Giáo dục, H, 2005.

7. Trích theo “Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch”, Nxb Sự thật, H, 1971, tr.530.

8. X. Aphônhin, E Côbêlép: Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb chính trị Mátxcơva, 1980, tr.4 , tiêng Nga.

9. Singô Sibata: Hồ Chí Minh – nhà tư tưởng , trong quyển “Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay” Trường Đại học sư phạm Hà Nội và Viện Thông tin khoa học xã hội xuất bản, Hà Nội, 1992, tr.82.

10. Furuta Matoo: Hồ Chí Minh giải phóng dân tộc và đổi mới, Nxb chính trị quốc gia, H, 1997, tr.226,227.

11. Hồ Chí Minh – Notre camarade, Introduction historique de Charles Fourniau, Editions sociales, Paris, 1970, tr.26.

12. W. J. Duiker:Hồ Chí Minh, Allen &Unwin, Sustrelie, 2000, tr.6, 575,2.

13. Daniel Hémery: Jeunesse d’un colonisé. Genese d’un ẽil Hồ Chí Minh jusqu’en 1911, Approché, Asia, N- 11,1992, tr.118.

14. Trần Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, tập III.

15. Thành công của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2000.

16. Phan Ngọc Liên, Trịnh Tùng: Về đơn xin học trường thuộc địa Pháp của Nguyễn Tất Thành năm 1911. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử 1994, số 5 (276), tr.84-87.

17. Phan Ngọc Liên: Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử dân tộc

18. Nguyễn Khắc Huyên: Vision accomplissed. The enigma Ho Chi Minh, New York, 1971, tr.70-71.

19. Hồ Chí Minh, sự thật và thân thế và sự nghiệp. Nhà sách và xuất bản Nam Á, Paris,1990.

20. Trương Vĩnh Kính: Hồ Chí Minh tại Trung Quốc( Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ nghĩa bản xã, 1972). Bản dịch Việt ngữ, Văn nghệ xuất bản, California, USA, 1999.

21. Bùi Tín: Following Hồ Chí Minh – Memors of a North Vietnammese Colonel, University of Hawaii Press, Honolulu,1999.

Sunday, November 28, 2010

Nghĩ về vụ thảm sát ở Katyn & sự thật lịch sử


Kami
Xem thêm:
Những năm trước đổi mới khoảng năm 1983 – 1984 thời mà nhà nước Việt nam còn bị Mỹ cấm vận và quan hệ quốc tế của ta lúc ấy rất hạn chế chỉ quanh quẩn với các nước trong phe XHCN, khi ấy tôi có được nghe người lớn kể lại rằng ở Hà nội khi ấy có một số cán bộ Sứ quán Cộng hòa Nhân dân Ba lan tại Hà nội hay mặc áo phông có in hàng chữ “TÔI KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI LIÊN XÔ” bằng tiếng Việt trên đường phố. Ở cái thời khi mà thông tin hoàn toàn bị bưng bít, kênh thông tin duy nhất chỉ là báo chí truyền thông của đảng thì chuyện ấy cũng là một sự kiện chính trị đáng chú ý khiến cho người dân thầm thì lưu truyền nhau. Hồi ấy thầm thì những chuyện “người lớn” như kiểu ấy mà công an biết là liệu hồn.
Khi đó, còn ít tuổi suy nghĩ còn hạn chế tôi chỉ nghĩ rằng người dân Ba lan khinh (chứ không nghĩ là ghét) người Liên xô, vì người Liên xô khi đó thiếu đói nhiều hơn dân Ba lan và dân Ba lan thời đó cũng có tự do hơn dân Liên xô. Lý do mà tôi nghĩ công dân Ba lan xấu hổ khi người Việt nam mình nhầm họ với người Liên xô vì lẽ đó chứ đâu phải là do hận thù. Và rồi Liên xô sụp đổ cùng với các nước XHCN ở Đông Âu những năm cuối thập kỷ 80, trong đó có nước Cộng hòa Ba lan, nó cũng dần đi vào quên lãng.
Dấu ấn ghi đọng về đất nước Ba lan trong tôi bây giờ chỉ còn lại trong hai câu thơ “Em ơi Ba lan mùa tuyết tan – Đường bạch dương sương trắng nắng tràn” của Tố Hữu và Công đoàn Đoàn kết của ông Lech Wałęsa đã lật đổ chế độ cộng sản ở Ba lan.
Hôm nay trên Báo Tuổi trẻ có đăng tin “ Nga thừa nhận Stalin ra lệnh thảm sát Katyn“, đọc tin này xong rồi mới biết rằng Quốc hội Liên bang Nga ngày 25-11 đã bỏ phiếu thông qua nghị quyết thừa nhận vụ cảnh sát Nga sát hại 22.000 sĩ quan và công dân Ba Lan ở rừng Katyn, phía tây nước Nga, năm 1940 do nhà lãnh đạo Josef Stalin ra lệnh. Nghị quyết được thông qua tại quốc hội Nga, với 342 phiếu thuận, 57 chống, không ai bỏ phiếu trắng, công nhận vụ giết hại gần 22 ngàn sĩ quan Ba Lan vào mùa xuân năm 1940 là tội ác của chế độ Stalin và Liên Xô là một nhà nước độc tài toàn trị, phải được xem là một thay đổi có tính đột phá.

Các hố chôn tập thể tại rừng Katyn được khai quật để điều tra – Ảnh: Tư liệu

Đọc xong tôi giật hết cả mình, thì ra ông Josef Stalin, người mà Bác Hồ từng nói “Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Ðông thì không thể nào sai được” và ông Tố Hữu UV Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng Hòa XHCN Việt nam đã từng gào lên khi nghe tin ông qua đời rằng:
“… Stalin! Stalin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!
….
Ông Stalin ơi, Ông Stalin ơi!
Hỡi ơi, Ông mất! Đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương mười…”
Nói về Stalin như Bác Hồ, như ông Tố Hữu thì ông Stalin là người tốt, nhưng thử hỏi người tự tay ký sắc lệnh ra lệnh cho an ninh Nga đã bắn bỏ tập thể gần 22 ngàn sĩ quan quân đội, cảnh sát của Ba Lan tại rừng Katyn thì là kẻ sát nhân chứ sao lại là người tốt và sao lại không bao giờ sai? Tôi không hiểu Bác Hồ của ta và ông Tố Hữu có bị vấn đề gì trong bộ nghĩ của họ hay không nhỉ? (không dám nói họ là bọn thần kinh không bình thường).
Cũng được biết thêm, theo nhà báo Lê Diễn Đức trong bài “Muộn còn hơn không: Quốc hội Nga thừa nhận tội ác Stalin“ và bài “Viện Duma Nga lên án Stalin vì vụ Katyn” trang BBC thì cho rằng Stalin đã bằng cách này vì muốn trả thù cho sự thất bại của Hồng quân Liên Xô trong cuộc xâm lược Ba Lan vào năm 1920, mà đáng tiếc hơn là  đến gần nửa thế kỷ nhà nước Liên Xô luôn đổ lỗi cho phát xít Đức là thủ phạm gây ra vụ thảm sát, phải đến đến 1990 khi nhà nước cộng sản Liên xô bắt đầu sụp đổ mới bắt đầu công nhận sự thật đó.
Qua sự kiện Quốc hội Liên bang Nga (Duma) đã thông qua nghị quyết về vụ thảm sát Katyn mà ” Mục tiêu của chúng tôi là loại bỏ sự dối trá về Katyn” như lời Chủ tịch Ủy ban Đối Ngoại của Duma, Konstantin Kosachev cho biết, thì đến khi này mình mới hiểu rằng người Ba lan trước đây rất ghét người Liên xô là vì mối hận thù mang tính diệt chủng này. Và cũng qua đây mới thấy sự mù quáng của các lãnh tụ cách mạng một thời là thần tượng của cá nhân mình do được đảng giáo dục và vận động mọi người học tập và noi gương, nhưng cũng chẳng trách họ được.
Nhân việc này mình mới nghĩ lại chuyện Bác Hồ ngày xưa biện minh khi bọn phản động  chỉ trích Bác rằng Chính phủ Hồ Chí Minh thỏa hiệp với Pháp năm 1946 là bán nước, khi đó Bác bảo “Lênin có nói rằng: Nếu có lợi cho cách mạng thì dù phải thỏa hiệp với bọn kẻ cướp, chúng ta cũng thỏa hiệp”. May có câu này mình mới thấy được sự “vĩ đại” của Người và thông cảm cho Bác Hồ, vì dựa vào câu trên thì của Bác nói thì suy ra ngày xưa Bác Hồ và ông Tố Hữu khen Stalin là khen đểu, khen để diễn kịch lừa nó (LX) lấy viện trợ thôi. Điều đó cho thấy Bác Hồ không ngu như bọn phản động nó chửi rủa đâu mà Bác Hồ tinh lắm. Khi ấy mọi người ai cũng biết Stalin là trùm đảng cướp ở Liên xô (Cộng sản thì chuyên cướp các loại kể cả giành chính quyền còn gọi là cướp chính quyền cơ mà), thời đó mà cái đảng cướp ấy có chính danh là Đảng Cộng sản Liên xô thì sao mà Bác Hồ của chúng ta không biết?
Bác Hồ biết cộng sản là đảng cướp mà Bác vẫn theo, vẫn khen, vẫn hợp tác, vẫn liên minh v.v… và Bác mình cứ giả vờ như không biết, vì Bác thấy vẫn có lợi cho cá nhân Bác và đồng bọn của Bác trong quá khứ, hiện tại và tương lai nên Bác cứ hợp tác. Cứ xem Liên xô tan rã và sụp đổ từ lâu mà Bác vẫn nằm vô tư trong Lăng Bác, một sản phẩm của Liên xô bỏ tiền ra xây dựng cho Bác nằm không sướng sao? Các đồng chí lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước ta bây giờ vẫn học Bác Hồ đấy chứ, vẫn tiếp tục lừa bọn Nga ngố như Bác Hồ đã từng làm. Cách đây mấy hôm, khi hội đàm với Tổng thống CHLB Nga đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh xin phép được gọi Tổng thống Nga Dmitry Medvedev làĐồng chí (Товарищ)Tổng Thống Liên Bang Nga đấy thôi!
Bản chất của họ là lừa mà, khó mà bỏ và sửa được thói xấu khốn nạn này.
Ông cố Tổng thống Ba lan Lech Kaczynski vừa chết do tại nạn máy bay khi đi tới dự lễ tưởng niệm vụ thảm sát Katyn, ở phía tây nước Nga có một câu nói rất nổi tiếng, đại ý là vũ khí duy nhất để thắng độc tài cộng sản là sự thật. Thật chính xác, bởi khi biết sự thật của vụ thảm sát ở Katyn của Stalin thì không chỉ người dân Ba lan, người dân Nga mà cả người dân Việt nam cũng phần nào biết được những sự thật mà bị che dấu hoặc xuyên tạc của các chính quyền cộng sản cầm quyền bấy lâu nay. Sẽ tới một ngày nào đó, ở Việt nam nếu hết cộng sản cai trị, nghĩa là hết chỗ dung túng cho sự dối trá, bưng bít và  xuyên tạc tồn tại.
Nghĩ tới ngày ấy trong tương lai lại lo, không biết cái gì sẽ xảy ra với đồng chí Hồ-ta-lin đệ tử của Stalin thủa trước và các cộng sự đàn em của ông ta còn có gì bưng bít dối trá khốn nạn hơn vụ thảm sát Katyn ở Ba lan hay không?
Lạy trời đừng nhé, vì nếu thế thật thì khi ấy thì khi ấy không cần có thảm sát cũng có hàng trăm, hàng ngàn người phẫn uất sẽ tự tử mà chết vì khi biết sự thật về thần tượng họ tôn thờ hàng chục năm nay đã phản bội họ. Ví dụ chuyện nhỏ là khi ấy quanh Lăng của Người lại có thêm bao nhiêu bia mộ mới, đó là bia của những người đàn bà đã từng là Hoàng hậu chính thức và không chính thức của Người sẽ được về nằm bên Người theo đúng truyền thống của người Việt nam và người Trung quốc.
Xin đừng, xin đừng, tôi xin, tôi xin… xin đừng xảy ra chuyện đó.
Đau lòng người còn đang sống lắm!
Ngày 28/11/2010

Sunday, November 14, 2010

Ai viết bài ký tên Nguyễn Ái Quấc tại Pháp từ 1919 đến 1923?

Thụy Khuê

Hai gia đình cách mạng đã có công lớn đối với đất nước trong thế kỷ XX, là gia đình cụ Lương Văn Can ở Bắc và cụ Nguyễn An Khương trong Nam. Không những hai cụ là những nhà nho lãnh đạo phong trào Duy Tân và Đông Du ở Bắc và Nam, mà còn là thân phụ của hai người anh hùng hiện đại: Lương Ngọc Quyến và Nguyễn An Ninh, tiêu biểu cho hai khuynh hướng cách mạng: bạo động của Phan Bội Châu và bất bạo động của Phan Châu Trinh.

Nguyễn An Ninh (1900-1943)
Nguyễn An Ninh sinh ngày 5/9/1900 tại Chợ lớn. Là con và cháu của hai nhà cách mạng: Cha là Nguyễn An Khương,chú là Nguyễn An Cư, và cô ruột, đều là những nhà cách mạng. Nguyễn An Khương, đại diện Đông Kinh Nghiã Thục, lập khách sạn Chiêu Nam lầu để tài trợ cho phong trào Duy tân và Đông du. Dịch sách chữ Hán sang tiếng Việt. Viết bài trên Nông Cổ Mím-Đàm kêu gọi lòng yêu nước. Nguyễn An Cư, là nhà văn, nhà nho uyên thâm, thày thuốc Nam nổi tiếng. Gia đình gốc ở Quán Tre, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định (Sàigòn).
Nguyễn An Ninh tiếp nhận hai nền giáo dục từ nhỏ: Hán học, do cha và cô ruột dạy và Pháp văn: học trường Sở Cọp (ngang vườn bách thú), rồi trường dòng Taberd, và lycée Chasseloup Laubat. Làm báo tiếng Pháp rất sớm khi vừa xong bằng Brevet Élémentaire (Sơ học). Nổi tiếng bất khuất, chửi Tây, đánh Tây. Thủa nhỏ có tật nói cà lăm, nhưng tự luyện khỏi cà lăm. Khi ở Paris, ngày nghỉ thường ra ngoại ô, vào rừng luyện giọng hàng giờ, sau trở thành nhà diễn thuyết hùng hồn, lôi cuốn. Năm 1916, ra Hà Nội học trường thuốc, sáu tháng sau bỏ thuốc qua Luật. Không đầy một năm sau, Ninh về Sàigòn rồi sang Pháp học tiếp Luật. Đó là năm 1918 (theo Phương Lan-Bùi Thế Mỹ, Hồ Hữu Tường và Lê Văn Thử). "Ninh sang Pháp du học vào năm 1918, lúc Đức Quốc đã thua trận. Đến năm 1920, đã đoạt được bằng Cử Nhân Luật, vào lúc mới 20 tuổi" (Phương Lan- Bùi Thế Mỹ, trang 11)
Hoạt động trong Hội Người An Nam yêu nước và là một trong những cây bút ký tên Nguyễn Ái Quấc của nhóm Ngũ Long.
Về nước mùa thu năm 1922, sau khi đi Âu Châu (Anh và Ý), diễn thuyết nhiều lần tại Hội Khuyến Học Nam Kỳ, đả kích chính sách thực dân, phát huy tinh thần dân chủ, được thanh niên hưởng ứng.
Tháng 3/1923, Nguyễn An Ninh sang Pháp, ở lại nửa năm, dường như chuyến đi này để thuyết phục Phan Văn Trường về nước. Phan Văn Trường rời Pháp ngày 22/12/1923 và đến Sàigòn ngày 21/1/1924.
Đêm 15/10/1923, Nguyễn An Ninh diễn thuyết ở hội Khuyến học Sàigòn, bài Cao Vọng Thanh niên, có tiếng vang lớn, Thống đốc Nam Kỳ gọi Ninh lên cảnh cáo.
Ngày 10/12/1923, phát hành số 1, báo La Cloche fêlée (Chuông rè) do Nguyễn An Ninh sáng lập, Jean de la Bâtie (Lê Văn Thử ghi Dejean de la Bâtie), làm chủ nhiệm. Bâtie sẽ là thày dạy tiếng Pháp cho Phan Khôi. Việc Phan Khôi bị mật thám theo dõi phải lánh xuống Cà Mau ba năm trong khoảng thời gian này, chắc có liên quan tới báo Chuông rè.
La Cloche fêlée là cơ quan ngôn luận đầu tiên chống Pháp công khai và mãnh liệt tại Việt nam. Nguyễn An Ninh viết bài, lên trang, đưa in và tự mình đem báo đi bán. Báo viết tiếng Pháp, đánh thẳng vào các chính sách thực dân.
Đến số 19, ra ngày 14/7/1924, phải tạm ngưng (vì vụ Phạm Hồng Thái ném bom ở Sa Điện, Quảng Châu, giết hụt toàn quyền Merlin ngày 19/6/1924, và một số sự kiện khác, theo Ngô Văn, sđd, trang 50). Theo Lê Văn Thử, phải tạm ngưng vì Thống đốc Cognacq tìm cách đóng cửa tờ báo nhưng không được, bèn sai lính kín hăm dọa chủ nhà in (Lê Văn Thử, Hội Kín Nguyễn An Ninh, Nam Việt, 1949, trang 24).

La Cloche fêlée phải tạm ngưng, Nguyễn An Ninh lại sang Pháp, gặp Nguyễn Thế Truyền đang phụ trách tờ Le Paria và Hội Liên hiệp Thuộc địa. Ninh ở Pháp gần một năm và lần này đón Phan Châu Trinh về nước. Ngô Văn viết:
"Trước khi lên đường ba hôm, Ninh và Trinh tham dự cuộc mít tinh tập hợp hơn 800 người Pháp và Đông Dương tại Khách sạn Hội Bác Học (Hôtel des Sociétes savantes): kết cuộc mít tinh quyết nghị như sau:
"Những người Pháp và Đông Dương tập hợp ngày 25/5/1925 hồi 21 giờ, do ông Phan Châu Trinh chủ toạ, sau khi nghe các bản tường trình của các ông Nguyễn An Ninh, Diệp Văn Kỳ và Dương Văn Giáo về tình hình chung ở Đông Dương, đã thông qua nghị quyết sau đây để gửi tới chính phủ cộng hoà..." (Ngô Văn, trang 50, trích theo Georges Garos, Forceries humaines, Paris 1926, trang 179). Nội dung bản quyết nghị tương tự như bản Thỉnh nguyện thư 1919 của Phan Văn Trường, thêm vài điều khoản mới, nên chúng tôi không chép lại ở đây.

Ngày 18/5/1925, Phan Châu Trinh và Nguyễn An Ninh lên đường xuống Marseille.
"Phan Châu Trinh đã xuống tàu hôm 28/5/1925 về Sàigòn. (...) Cùng chuyến tàu có tên phiến loạn chống Pháp là Nguyễn An Ninh cùng về. Cũng có quyển France en Indochine [tác phẩm của Nguyễn An Ninh] chống Pháp một cách đáng ghét đã được đem về trong chuyến này. Yêu cầu không được phổ biến quyển sách này. Xin làm mọi cách để ngăn cấm." (Điện tín ký tên André Hesse - do tổng giám đốc cơ quan An Ninh gửi từ Paris sang Hà Nội (Thu Trang, trang 231-232).

Tờ Chuông rè im lặng được 20 tháng, khi Phan Bội Châu bị bắt đưa về Hà Nội, ra toà ngày 23/11/1925 về tội "phiến loạn", Nguyễn An Ninh tung trở lại tờ Chuông rè ngày 25/11/1925, phát động chiến dịch bảo vệ Phan Bội Châu (cùng với Đông Pháp Thời Báo) và bên Pháp Nguyễn Thế Truyền lập tức vận động Hội Liên hiệp Thuộc địa; tổ chức mít tinh lớn tại Hội trường Hội Bác Học ngày 9/10/1925; ứng khẩu diễn thuyết hùng hồn cảm động và viết trọn hai số Le Paria 36 và 37 về Phan Bội Châu. (ĐHT, trang 56-57).
Toàn quyền Varenne phải thả Phan Bội Châu ngày 24/12/1925, đưa về an trí ở Huế.
Đầu năm 1927, Ninh sang Pháp và lần này đón Nguyễn Thế Truyền về nước.
Nguyễn An Ninh: Năm lần bị bắt và bị cầm tù 
1- Lần thứ nhất: 20/3/1926, bị bắt, bị kết án 18 tháng tù, vì tội phá rối trị an, viết báo Chuông rè và truyền đơn xúi dân làm loạn, tổ chức mít tinh tại Xóm Lách, Vườn Xoài (tổ chức chứ không tham dự, vì bị bắt từ hôm trước), ở nhà bà Đốc Phủ Tài, dì ruột của Ninh, đưa ra bản quyết nghị có ba ngàn người biểu quyết, đòi tám điểm, tương tự như Bản Thỉnh Nguyện của Phan Văn Trường tại Hội nghị Hoà bình Versailles năm 1919.
Phan Châu Trinh mất ngày 24/3/1926. Tổ chức đám tang Phan Châu Trinh do Ninh và Phan Khôi đảm trách, nhưng Ninh bị bắt ba ngày trước đó (chúng tôi sẽ nói rõ hơn trong phần thứ nhì, viết về Phan Khôi).
Ngày 7/1/1927, được ân xá, Ninh xin sang Pháp, liên lạc các nhóm đấu tranh ở Pháp và mời Nguyễn Thế Truyền về nước (Phương Lan- Bùi Thế Mỹ, trang 177). Ngày 7/12/1927 Nguyễn Thế Truyền và gia đình, cùng Nguyễn An Ninh lên tàu Chantilly, từ Marseille về Sàigòn.

2- Lần thứ nhì: tháng 9/1928, bị kết án ba năm tù vì tội lập Hội Kín Nguyễn An Ninh, dính líu gần 500 người bị bắt vì tội "đảng viên". Phan văn Hùm cũng bị tù, được thả, viết cuốn sách nổi tiếng Ngồi tù khám lớn. Đến cuối năm 1930, Ninh được thả.

3- Lần thứ ba: 4/1936, bị bắt về tội viết báo La lutte (Tranh đấu) (quy tụ nhóm: Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Lê Văn Thử, Phan Văn Hùm) phá rối trị an, bị kết án 18 tháng tù, cùng với Tạ Thu Thâu, Nguyễn Văn Tạo. Tuyệt thực. Tháng 11/1936 được thả.

4- Lần thứ tư: 7/37 bị bắt trở lại, kết án 5 năm tù ở, 5 năm biệt xứ, về tội tổ chức biểu tình ở quận Càn Long "xúi giục dân chúng nổi loạn". Tháng 1/1939 được ân xá.

5- Lần thứ năm: Ngày 5/10/1939, đệ nhị thế chiến bùng nổ, bị bắt cùng với nhiều nhà chính trị khác đủ các khuynh hướng. Ninh bị kết tội phá rối trị an bằng cách hành động trong những cơ quan bí mật, tiếp xúc và xúi giục nông dân, thợ thuyền nổi lên chống chính phủ Pháp. Bị kết án: 5 năm tù. 10 năm biệt xứ và mất quyền công dân.  Lần này, không thoát khỏi tử thần, nhà cách mạng Nguyễn An Ninh mất tại Côn Đảo ngày 14/8/1943, ở tuổi 43. (Theo Phương Lan-Bùi Thế Mỹ)

Bài diễn thuyết Cao vọng thanh niên tại hội Khuyến học Sàigòn, đêm 15/10/1923 đánh dấu sự thành công đầu tiên của Nguyễn An Ninh như một nhà trí thức ái quốc (23 tuổi) "mở màn cho cao trào cách mạng, mở mang dân trí, dân sinh, dân quyền, dân chủ cho nòi giống Việt" như Phương Lan Bùi Thế Mỹ nhận xét (Phương Lan Bùi Thế Mỹ, trang 12). Bài diễn văn này, và các bài viết trên La cloche fêlée của Nguyễn An Ninh đã ảnh hưởng sâu xa đến lớp trẻ như Hồ Hữu Tường, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu... Họ coi Ninh như thần tượng và noi gương Ninh làm cách mạng chống Pháp, lập đảng Trốt kít. Phan Khôi, dù lớn hơn Ninh 13 tuổi, cũng chịu ảnh hưởng của Ninh (sẽ chứng minh bằng văn bản) trong việc xây dựng một nền quốc học, thoát khỏi ảnh hưởng Khổng Mạnh, gần gụi với tinh thần khoa học Tây phương.

Tại Paris, Ninh vừa làm vừa học: viết bài khảo cứu về Đông Phương học cho các báo, hoặc làm người mẫu cho họa sĩ. Chơi thân với giới văn nghệ sĩ Pháp và nhóm Anarchiste (Vô chính phủ). Để tóc dài. Có lúc Nguyễn An Ninh và Phan Văn Hùm cạo trọc đầu. Khi về nước, viết báo, lên khung, in báo, mặc áo dài, tóc dài, đem báo rao bán trên đường Catinat. Nấu dầu cù là Nguyễn An Ninh đem bán khắp thôn quê kiếm sống và diễn thuyết, nói chuyện với quần chúng đói khổ về tình hình đất nước. Nguyễn An Ninh là khuôn mặt cách mạng độc đáo nhất trong thế kỷ XX.

Tại Paris, hoạt động tích cực trong hội Người An Nam Yêu Nước, trở thành một trong Ngũ long, diễn thuyết và viết báo chống thực dân Pháp. "Tụi Tây ít khi phục bằng cấp (...) Ninh viết français hay lắm, tụi nó lác mắt. Chừng đó mới chịu phục (...) Khởi đầu, Ninh viết trong tờ Le Libertaire [Người tự do tuyệt đối] là cơ quan anarchiste [Vô chính phủ]. Tây nó phục rồi, mới rủ Ninh đứng vào nhóm sáng lập tạp chí Europe (do J.R.Bloch làm giám đốc)... Vào tạp chí Europe, Ninh làm quen với Léon Werth. Sau Ninh rủ Léon Werth qua bên mình. Về Pháp, Léon Werth viết cuốn Cochinchine để ca tụng Ninh là người trí thức độc nhứt kể cả Tây lẫn Việt, mà Werth gặp được ở Nam Kỳ". (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, Đông Nam Á, Paris, 1984, trang 13).
"Năm 1922, vào mùa thu, sau khi kết nạp, tìm tòi, học hỏi ở Ý và ở Anh, kết nạp đặng nhiều bạn đồng chí như lãnh tụ Ấn Độ Nerhu, Ninh đã trở về đất nước phổ biến chí hướng phong trào ái quốc, cách mạng với dân tộc. Cái tài quan trọng nhứt là tài diễn thuyết và viết. Ninh đem từ Âu Châu về một lối văn mới, lời ít mà nói nhiều, câu văn gọn không rườm rà dài dòng lê thê mà tối nghiã như lối nhà văn thâm nho." (Phương Lan- Bùi Thế Mỹ, Nguyễn An Ninh, trang 41). Lối viết thẳng và bộc trực này, cũng sẽ là lối viết của Phan Khôi, nhất là trong những văn bản cuối cùng, lối lập luận và văn phong của Phan Khôi về đấu tranh giai cấp có nhiều điểm giống Nguyễn An Ninh. Ninh viết về Đạo Phật, về Nietzsche, dịch 5 chương đầu cuốn Contrat social (Dân ước) của Rousseau... Hành động quyết liệt nhưng tư tưởng trung dung, giao hoà Âu Á. Đó là Nguyễn An Ninh.

Nguyễn An Ninh tỏ lòng ngưỡng mộ đặc biệt Lương Ngọc Quyến, có lẽ cái chết bi tráng của Ngọc Quyến đã gây dấu ấn sâu đậm trong Ninh, khiến sau này Ninh cũng trở nên một nhà cách mạng can trường vào bậc nhất của thế hệ ông. Trong 43 năm sống, một phần ba đời vào tù ra khám, nhưng không hề nhụt chí, tiếp tục tranh đấu bằng ngòi bút cho đến chết.

Với cái nhìn rộng về tình hình thế giới, thâm hiểu cuộc cách mạng bất bạo động của dân Ấn Độ, Nguyễn An Ninh là khuôn mặt cách mạng hiện đại nhất của chúng ta. Một thần tượng trẻ trung, bụi đời, hóm hỉnh. Nhưng Nguyễn An Ninh còn là người anh cả nếu không muốn nói là cha đẻ của phong trào cách mạng thanh niên, chủ yếu nhóm Trốt-kít, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Hồ Hữu Tường, Huỳnh Văn Phương... những thanh niên học trường Tây, sử dụng ngôn ngữ Voltaire, dùng tinh thần cách mạng 1789 để chống thực dân Pháp tại Pháp và tại Nam Kỳ, trong suốt 25 năm, từ 1920 đến 1945.
Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh 
Khác hẳn với các nhà cách mạng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... Tiểu sử Hồ Chí Minh là một bí mật. Chỗ nào ông muốn viết (hoặc sai người viết), chỗ nào giấu đi hoặc thêm thắt vào, là có chủ đích rõ ràng. Chủ đích đó không phục vụ sự thật, như Phan Bội Châu viết Ngục Trung Thư hay Tự Phán: thật như đếm, sai lầm của mình cũng viết, ý kiến nào do Nguyễn Thành hay Lương Khải Siêu nghĩ ra cũng nói rõ.
Hồ Chí Minh không ngần ngại nhận mình là tác giả những bài viết và những công trình không phải của ông. Đó là sự cách biệt sâu xa về nhân cách giữa hai nhà cách mạng. Lời Phan Khôi dặn con: "Khi con gái của Mác hỏi cha thích tính gì nhất? Mác đã trả lời: tính thật thà!" (Phan Thị Thái, Nhớ cha tôi học giả Phan Khôi, Kiến thức ngày nay, tháng 12/1996), là một chúc thư mà cũng là một lời cảnh cáo Hồ Chí Minh về toàn diện lịch sử mờ ám của ông.
Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ chú ý đến thời kỳ Nguyễn Tất Thành ở Pháp, từ 1919 đến1923. Thời gian này, ông tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và chính những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc đã xây dựng nên huyền thoại Hồ Chí Minh.
 
1- Nghi vấn thứ nhất: năm sinh?

Cuối lá thư viết tay ở Marseille ngày 15/9/1911, gửi cho Tổng thống Pháp, xin vào học trường Thuộc địa, có ghi sinh năm 1892 ở Vinh. Một mật báo ghi Nguyễn sinh ngày 24/1/1892. Một mật báo khác, ghi 15/1/1894. Trong hộ chiếu vào Nga năm 1923, theo Hồng Hà, ghi 15/1/1895. Còn ngày sinh chính thức 19/5/1890, có từ năm 1946, có thể lấy ngày thành lập Việt Minh. [Theo Nguyễn Thế Anh, L'itinéraire polytique de Ho Chi Minh, trong cuốn Ho Chi Minh, L'homme et son héritage, Đường Mới, Paris, 1990].
Những sử gia Pháp, như Hémery cho rằng: năm sinh chính thức 1890 (thay vì 1895 hay 1898), chỉ có mục đích phục vụ huyền thoại: 1890 tính đến 1945 là ngoại ngũ tuần, đáng được gọi bằng Bác. Năm Nguyễn Tất Thành từ Anh sang Pháp cũng thế, theo Hémery, Nguyễn Tất thành đến Pháp năm 1919. Nhưng lại chính thức chọn năm 1917, vì có những mốc lịch sử gắn liền: những cuộc binh biến trong quân đội Pháp và cuộc cách mạng tháng 10 của Nga. (Pierre Brocheux, Ho Chi Minh, Presses Sciences Po, 2000, trang15).

Tiểu sử chính thức Hồ Chí Minh, được rút từ những cuốn hồi ký do chính ông viết hoặc sai người viết: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch của Trần Dân Tiên, bản đầu tiên viết mùa xuân năm 1948 bằng chữ Hán, in ở Thượng Hải năm 1949. Dịch và in ở Hà Nội năm 1958. Cuốn thứ nhì: Vừa đi đường vừa kể chuyện của T. Lan, in năm 1963(T. Lan làmột trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh sau 1951, theo Bùi Tín, ông rút ngắn bí danh Trần Thái Lan của Nguyễn Thị Minh Khai khi hoạt động ở Hương Cảng và Quảng Đông). Cuốn thứ ba: Thời thanh niên của Bác Hồ, của Hồng Hà, nxb Thanh Niên, 1976. Cuốn của Trần Dân Tiên có một số đoạn tương đối thành thực. Cuốn của Hồng Hà, đầy đủ và logique hơn, nhưng có những đoạn bớt đi hoặc thêm vào, lộ liễu, cốt để nâng cao giá trị thần tượng.

Trong thời gian 1911-1923, cuộc đời Nguyễn Tất Thành, có thể đã diễn ra như sau :
Ngày 4/6/1911, Nguyễn Tất Thành rời Sàigòn trên tàu L'Amiral Latouche-Tréville, trọng tải 6000 tấn, chạy đường Sàigòn-Dunkerque, làm phụ bếp, lấy tên là Văn Ba. Tháng 9, tới Marseille, gửi thư cho Tổng Thống Pháp xin vào học trường Thuộc Địa. Rồi lại theo tàu về Le Havre. Làm việc nhà cho ông chủ tàu ở Sainte Adresse ngoại ô Le Havre, độ một tháng rồi lại tiếp tục lên tàu đi Phi Châu.

Từ 1912 tới mùa hè 1914, vẫn dùng tên Ba, làm bồi, phụ bếp, hoặc khuân vác trên những tàu xuyên Đại Tây Dương, chạy đường Le Havre – Londres - New York, hoặc Châu Phi - Châu Mỹ. Từ 1914-1919, bỏ việc bồi bếp trên tàu, sống tại Luân Đôn với tên Nguyễn Tất Thành, ở số 8 Tottenham Road. (Theo Hémery, trong thế chiến, Tất Thành tránh sang Pháp vì ngại có thể bị gọi đi quân dịch). Làm việc tại khách sạn Carlton, rửa bát, rồi phụ bếp. Học tiếng Anh và hình như buổi tối có học thêm Máy móc (Mécanique) và Điện. Trao đổi thư từ thường xuyên với Phan Châu Trinh, bằng Hán văn. Khoảng tháng 5-6/1919, sang Paris. Hoạt động trong Hội Người An Nam Yêu Nước.

Ngày 27/12/1920, khai mạc hội nghị Tours của đảng Xã hội (SFIO), xuất hiện công khai với tên Nguyễn Ái Quốc.
Ngày13/6/1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật đi Nga, tới Moscou ngày 30/6/1923.
Tháng 2/1925, Lý Thụy xuất hiện ở Quảng Đông -tình báo Trung Hoa nhận diện là Nguyễn Ái Quốc- Thành lập Việt nam Thanh niên Cách mệnh Đồng chí hội.

Nghi vấn thứ nhì: Trình độ học vấn

Theo năm sinh chính thức 1890, thì 1911, khi xuống tàu đi Pháp, Tất Thành 21 tuổi.
Từ điển Văn học và các tiểu sử chính thức đều ghi: thủa nhỏ học chữ Hán rồi chữ quốc ngữ, sau vào Quốc Học Huế. Đầu năm 1911, bỏ học, vào Phan Thiết dạy ở trường Dục Thanh [trường đầu tiên của phong trào Duy Tân], ít lâu sau vào Sàigon, rồi từ Sàigòn "xuất dương tìm đường cứu nước".
Daniel Hémery viết: "Theo lời khai của của Đạt (anh cả của Thành) với Sở Mật thám năm 1920, thì Thành học trường bảo hộ (franco-indigène), dường như Đông Ba, đậu bằng Tiểu học (Certificat d'études primaires). Cả hai ghi tên vào trường Quốc học (...) nhưng Thành học dở dang, bỏ đi làm (khoảng 1909?), làm trợ giáo, lương 8 đồng một tháng, ở trường Dục Thanh tại Phan Thiết."Daniel Hémery, Ho Chi Minh De L'Indochine au VietNam, Gallimard 1990, trang 32-33).
Hémery ghi rõ học trường Pháp-Việt và còn đậu cả bằng Certificat d'études primaires.
Nếu những chi tiết trên đây đúng, thì Nguyễn Tất Thành đi học đến năm 19 hoặc 21 tuổi, và nếu có cả Certificat d'études primaires tất phải biết tiếng Pháp.

Nhưng Trần Dân Tiên (Hồ Chí Minh) lại đưa ra những chứng cớ trái ngược, như sau: Ở trên tàu Latouche-Tréville "mỗi ngày anh Ba phải làm từ 4 giờ sáng", "công việc kéo dài suốt ngày", "suốt ngày anh Ba đẫm nước, hơi và mồ hôi, mình đầy bụi than", buổi tối có hai người lính giải ngũ, về Pháp, tốt bụng, "dạy cho anh đọc và viết" (TDT, trang 15-16-17)
Khi làm vườn cho ông chủ tàu ở Sainte Adresse, thì "anh học tiếng Pháp với cô sen" (TDT, trang 20).
Không có lý gì mà Hồ Chí Minh viết sai về chuyện này, nhất là ông lập lại việc khi đến Pháp ông không thạo tiếng Pháp, không viết được tiếng Pháp, phải nhờ Phan Văn Trường viết hộ.
Vậy vần đề học vấn của Nguyễn Tất Thành, phần chữ Hán là chắc chắn, vì cha là Phó bảng Nguyễn Sinh Huy, bạn học của Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh... Còn việc học ở các trường Đông Ba, Quốc học, dường như không lấy gì làm chắc lắm.


Nghi vấn thứ ba: Nguyễn Tất thành đến Paris năm nào?
1- Trong thời gian ở Luân Đôn, Nguyễn Tất Thành trao đổi thư từ thường xuyên với Phan Châu Trinh, gọi cụ Phan là Hy Mã nghi bá đại nhơn (Hy Mã là tên hiệu của Phan Châu Trinh, nghi bá là bác kính) và tự xưng là cuồng điệt Nguyễn Tất Thành (cuồng điệt là người cháu hăng say). Vì Phan Châu Trinh bị theo dõi rất kỹ, loạt thư này không qua mắt được mật thám, đó là một trong những lý do xác định khoảng thời gian 1914-1918, Nguyễn Tất Thành sống ở Luân Đôn.
2- Mật báo tìm thấy thẻ thư viện mang tên Nguyễn Ái Quốc, ghi năm 1919. (Thu Trang, Rapport ký tên Jean, in trong phần Phụ lục).

3- Nhưng Hồ Chí Minh tuyên bố khác hẳn, dưới ngòi bút Trần Dân Tiên, ông viết:
Thế giới đại chiến bùng nổ. (....) Anh Ba đến nói với tôi: "Xin từ biệt anh Nam"
- Anh đi đâu?
Tôi đi Pháp (...)
Sau khi rời Luân Đôn, anh Ba viết thư cho tôi. Đại ý thế này:
"Tôi đã gặp nhà ái quốc Phan Châu Trinh. (...) Tôi cũng gặp luật sư Phan Văn Trường và những người khác. Tôi nói với họ: Trong khi vua Duy Tân nổi dậy ở Huế, nhân dân Thái Nguyên và nhiều nơi khác khởi nghiã, thì chúng ta phải làm gì chứ?" (TDT, trang 30-31)

Mâu thuẫn: Đại chiến thứ nhất bùng nổ năm 1914. Vua Duy Tân nổi dậy, 1916 và khởi nghiã Thái Nguyên, 1917. Vậy nếu Tất Thành sang Paris khi đại chiến bùng nổ (1914) thì làm sao đã biết được những biến cố xẩy ra năm 1916 và 1917?
Có lẽ Hồ Chí Minh dùng năm 1914, chỉ với hậu ý muốn chứng minh chính mình đã dựng nên hội Người An Nam yêu nước, chính mình là tác giả những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc, chính mình chủ động đưa ra ý kiến về bản Thỉnh Nguyện ở Hội nghị Hoà Bình Versailles, năm 1919, và việc mình viết được những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc là do đã ở Pháp từ 1914 và hết sức cố gắng học tiếng Pháp.

Trần Dân Tiên viết về Hội Nghị Hoà Bình và bản Thỉnh Nguyện thư như sau:
" Họ đến để yêu cầu độc lập và tự do. Trong số đó, người ta thấy có ông Nguyễn Ái Quốc (tức là anh Ba). (...) Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam Yêu Nước ở Pa-ri và ở các tỉnh Pháp. Với danh nghiã của tổ chức này, ông đã đưa những yêu cầu ra trước hội nghị Véc-Xây(...) Cũng nên nhắc lại ý kiến đưa yêu cầu do ông Nguyễn đề ra nhưng lại do luật sư Phan Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp. Cũng nên nhắc lại là ông Phan Châu Trinh và ông Phan Văn Trường không tán thành hoạt động của nhóm Việt nam Yêu nước, vì các ông ấy cho nhóm thanh niên là trẻ con" (TDT, trang 32)
Trong đoạn này có một câu Hồ Chí Minh nói thật về bản Thỉnh Nguyện thư: luật sư Phan Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp.

Và đoạn sau này, cũng rất đáng lưu ý:
"Lúc ấy, ông Nguyễn là một người yêu nước quyết tâm hy sinh tất cả vì Tổ quốc; nhưng ông Nguyễn lúc đó rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là Công hội, thế nào là bãi công và thế nào là chính đảng" (TDT, trang 34).
"Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay. Ông Trường viết giỏi, nhưng không muốn ký tên. Mà chính ông Nguyễn đã phải ký tên những bài báo.
"Nhược điểm về tri thức làm ông Nguyễn rất khó chịu. Nhất là ông Trường không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói. Vì vậy, ông Nguyễn bắt tay vào việc học làm báo.
Thường lui tới toà báo "Dân Chúng", ông làm quen với những người Pháp khác trong đó có chủ bút tờ "Đời sống thợ thuyền". Cũng như ông Lông-ghê, người chủ bút này cũng rất đáng mến. Ông bảo ông Nguyễn viết tin tức cho tờ báo của ông. Biết rằng không thể nhờ ông Trường viết mãi, ông Nguyễn nói thật là mình cón kém tiếng Pháp. Người chủ bút nói: Điều đó không ngại, có thế nào anh viết thế ấy. Tôi sẽ chữa bài của anh trước khi đưa in. Anh không cần viết dài, năm, sáu dòng cũng được". Ông Nguyễn bắt đầu viết rất khó khăn. Tin tức về Việt nam, ông Nguyễn không thiếu. Ông thiếu nhất là văn Pháp (...) Khi thấy viết đã bớt sai lầm, ông chủ bút bảo ông Nguyễn: "Bây giờ anh viết dài hơn một tý, viết độ bảy tám dòng". Ông Nguyễn viết bảy, tám dòng.
Dần dần, ông Nguyễn có thể viết cả một cột báo và có khi dài hơn. Lúc bấy giờ người chủ bút bạn thân của ông Nguyễn khẽ bảo:"Bây giờ anh viết ngắn lại. Viết từng này hoặc từng này dòng. Không viết dài hơn." (Trần Dân Tiên, trang 35- 36).

Phần thành thật là ông đã công nhận lúc ở Pháp, ông chưa biết gì về chính trị, tiếng Pháp kém và muốn học để tự viết báo lấy. Và cũng lại có chỗ không thành thật, vì ông đã nâng thời điểm ông đến Pháp từ 1919 lên 1914.
Những người dạy tiếng Pháp cho Nguyễn Tất Thành, ngoài Phan Văn Trường, còn có Nguyễn Thế Truyền và có lẽ Nguyễn An Ninh nữa. Nhiều mật báo nói đến việc ngày nào Thành cũng gặp Truyền, có khi mấy tiếng đồng hồ. Nhưng Hồ Chí Minh chỉ nhắc đến Phan Văn Trường mà không nói đến hai người kia vì Nguyễn Thế Truyền sau chống Cộng và Nguyễn An Ninh, vô chính phủ và thân với nhóm Đệ Tứ.

Nguyễn Tất Thành chính thức nhận tên mình là Nguyễn Ái Quấc từ Hội nghị Tours.
Hémery viết "Nguyễn xoay sở để được mời đi dự Đại Hội đảng Xã hội ở Tours, nhân danh đại biểu khu 13 của nhóm Xã hội Đông dương ma (fantomatique). Ngày 27/12 anh phát biểu ủng hộ kiến nghị Cachin-Frossard, ủng hộ việc đảng Xã hội gia nhập Quốc Tế cộng sản" (Hémery, trang 46).
Tại hội nghị Tours (bắt đầu ngày 27/12/1920), Nguyễn Tất Thành xuất hiện công khai dưới tên Nguyễn Ái Quốc "ông Nguyễn lắng nghe nhưng không hiểu rõ lắm, vì người ta thường nhắc đi nhắc lại những tiếng, những câu: chủ nghiã tư bản, giai cấp vô sản, bóc lột, chủ nghiã xã hội, cách mạng (...) Ông Nguyễn nhức đầu vì khó hiểu" (TDT, trang 46-47). Tuy không hiểu rõ những bàn cãi chính trị trong hội nghị Tours, Nguyễn Tất Thành bỏ phiếu cho Đệ Tam quốc tế vì "Đệ Tam quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ" (TDT, trang 49). Đoạn này ông cũng thành thực, nhưng trong cuốn Hồng Hà sẽ bị bỏ hẳn và thêm vào những trang dài nói là ông đã nghiên cứu kỹ lý thuyết Mác-Lê trước khi dự Hội nghị Tours.

4- Việc Tất Thành sang Pháp năm 1914, khó tin, cho nên khi viết cuốn Thời thanh niên của bác Hồ (nxb Thanh Niên, 1976), Hồng Hà được lệnh sửa lại:
"Anh bỏ nghề phụ bếp ở Luân Đôn, sang Pháp, đấy là vào cuối năm 1917" (Hồng Hà, trang 38)
"Vừa tới Pa-ri, anh Nguyễn Ái Quốc đến ở nhà số 6 phố Vi-la đề Gô-bơ-lanh [6 villa des Gobelins], một phố yên tĩnh của quận 13. Đây là nhà của luật sư Phan Văn Trường. Cùng ở có cụ Phan Châu Trinh mà anh Nguyễn Ái Quốc có thư từ thăm hỏi luôn khi anh còn ở Luân Đôn. Ông Trường nhường cho anh một buồng con trên gác ba, vừa đủ kê một cái bàn, một cái giường và một cái tủ con. Dạo ấy, nhà số 6 phố Vi-la đề Gô-bơ-lanh là một trung tâm gặp gỡ của nhiều Việt kiều ở Pa-ri. Có khi bà con đến chơi ăn ở liền mấy ngày (...) Cụ [Phan Châu Trinh] làm nghề ảnh tư ngay tại nhà số 6. Để sống, anh Nguyễn - cả người Việt lẫn người Pháp quen gọi anh Nguyễn Ái Quốc như thế - cùng với một kiều bào khác là Tuyết giúp việc cho cụ Phan đồng thời học nghề rửa ảnh và phóng đại ảnh.
Cụ Phan là một nhà yêu nước chân thành, nổi tiếng ở Việt Nam và nước ngoài. Cụ hơn anh Nguyễn 19 tuổi, Còn ông Trường vốn là thông ngôn, học đến tiến sĩ luật học, làm nghề luật sư ở Pa-ri. Ông giỏi tiếng Pháp, vào quốc tịch Pháp, có nghiên cứu chủ nghiã Mác, quen biết nhiều trí thức và nhà chính trị Pháp. Điều mà anh Nguyễn băn khoăn hỏi hai người lúc đó làm gì cho đất nước trong khi đồng bào khao khát cách mạng thì không được trả lời thoả đáng, rõ ràng.
Anh Nguyễn vừa làm nghề rửa ảnh vừa chăm chỉ học thêm tiếng Pháp với ông Trường" (Hồng Hà, trang 19).
Trích đoạn này cho một số thông tin đáng lưu ý. Đặc biệt câu: "Vừa tới Pa-ri, anh Nguyễn Ái Quốc đến ở nhà số 6 phố Vi-la đề Gô-bơ-lanh [6 villa des Gobelins].

Chính câu này đã xác định ngày tháng Nguyễn Tất Thành đến Paris:
Bởi vì căn nhà số 6 villa des Gobelins chỉ có sau khi Phan Văn Trường giải ngũ, tức là từ tháng 4/1919, ông về sống tại Paris, như đã ghi trong hồi ký. Khoảng 1913-1914, Phan Văn Trường ở Rue Bertholet. 1914-1915 đi tù. Và sau khi ra tù, ông làm việc trong Công Binh Xưởng ở Toulouse. Tóm lại, nếu Nguyễn Tất Thành đến Paris ở ngay nhà Phan Văn Trường, thì chỉ có thể là sau tháng 4/1919 (Phan Văn Trường giải ngũ, lên Paris) và trước tháng 6/1919 (Nguyễn Tất Thành đem bản Thỉnh nguyện đến Versailles).

Vậy, có thể xác định chắc chắn rằng: Nguyễn Tất Thành đến Pháp trong tháng 5 hoặc tháng 6 năm 1919.
Nguyễn Tất Thành ở nhà số 6 villa des Gobelins của Phan Văn Trường hai năm, từ tháng 5- 6/1919, đến ngày 14/7/1921, Thành dọn tới số 9, Impasse Compoint, khu 17 (Hémery, trang 48). Đây là khu phố nghèo dành cho thợ thuyền, Thành tiếp tục nghề ảnh ở một cửa hiệu gần nhà. Ngày 14/3/1923, Thành dọn về trụ sở báo Le Paria (Người cùng khổ), số 3 phố Marché des Patriaches (HH, trang 187).
Khi đã xác định được đúng thời gian Nguyễn Tất Thành ở Pháp. Chúng ta có thể đi sâu hơn nữa vào tổ chức Việt kiều, vào sự phát sinh cái tên Nguyễn Ái Quấc và những công trình Hồ Chí Minh nhận là của ông nhưng lúc đó ông chưa có mặt tại Paris.

Hội Đồng Bào Thân Ái (La Fraternité des Compatriotes)

Phan Văn Trường viết:
"Một ngày trong năm 1912, sau khi đưa đám một thiếu niên An Nam, học sinh trường Parangon [trường Nguyễn Thế Truyền học], một số đồng bào đưa ra ý kiến lập hội Ái hữu Sinh viên An Nam tại Pháp (Association amicale des étudiants annamites en France). Họ đề nghị tôi nghiên cứu dự trình để thực hiện càng sớm càng tốt. Tôi trả lời ngay: "Làm thì dễ, Pháp có luật 1/7/1901, tự do lập hội. Nhưng luật không chưa đủ, còn phải tính đến chính sách thuộc địa nữa. Các bạn nên biết, nếu ta lập hội mà không có phép, chính quyền thuộc địa sẽ tìm cách dẹp ngay." (PVT, trang 87). Tuy nói vậy, nhưng ông cũng làm:
"Tôi bắt tay vào việc. Viết bản nội quy và thảo một chương trình [hành động] dài. Hội được thành lập trong sự hoan hỉ của đồng bào đã giao phó trách nhiệm cho tôi. Tôi yêu mến đặt tên nó là Thân Ái (La Fraternité). Hội có mục đích:
1- Giúp sinh viên Đông Dương xa gia đình có cơ hội gặp gỡ, kết bạn, đến chơi và giúp đỡ nhau trong trường hợp rủi ro, bệnh hoạn.
2- Học chung với nhau để trao đổi kiến thức khoa học và văn chương.
Hội Thân Ái mỗi tháng tổ chức nhiều cuộc hội họp, và diễn thuyết." (Hồi ký PVT, chương 13, trang 87-88).

Qua sinh hoạt của hội, Phan Văn Trường gặp Phan Châu Trinh năm 1912. Sau này, người ta thường viết Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường lập hội là không đúng. Người lập hội là Phan Văn Trường.
Hội Đồng bào Thân ái là tế bào đầu tiên của người Việt tại Pháp.
Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh, trở thành hai nhà lãnh đạo của phong trào Việt kiều yêu nước tại Pháp. Vì hoạt động của hội, mà Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh bị bắt năm 1914. Hội Đồng bào Thân ái phải ngưng hoạt động. Phan Văn Trường viết:
"Hội hoạt động công khai không mờ ám. Chúng tôi cũng biết là có mật thám trà trộn trong đám hội viên, nhưng không sao, càng tỏ cho họ thấy là hội của chúng tôi theo đuổi những mục đích hoàn toàn hợp pháp và đáng khuyến khích. (...) Bọn mờ ám vẫn rình rập, với thế lực trong chính quyền thực dân, thế nào họ cũng phá. Hội của chúng tôi bị tẩy chay, họ phao tin hội này là ổ cách mạng, gián tiếp cảnh cáo hội viên nếu cứ cứng đầu không chịu bỏ thì có ngày sẽ phải hối hận". (PVT, trang 89).
Theo mật báo của mật thám thì Hội Đồng Bào Thân Áiphải giải tán vào năm 1916 (Thu Trang, trang 43). Tuy nhiên thông tin này chưa chắc đã đúng. Có thể hội phải giải tán sớm hơn, từ khi hai vị thủ lĩnh bị bắt vào tháng 9/1914.
Hội Người An Nam yêu nước ra đời.

Hội Người An Nam Yêu Nước (Le Groupe des Patriotes Annamites) ra đời.
Sự xuất hiện bút hiệu Nguyễn Ái Quấc.

Về mặt chính thức, Hội Người An Nam Yêu Nướcthành lập sau thế chiến, tức là sau khi Phan Văn Trường giải ngũ trở về Paris vào tháng 4/1919. Căn nhà 6 villa Gobelins, quận 13, của ông trở thành trụ sở của hội, theo mật báo Pháp.
Nhưng về mặt không chính thức, có thể hội đã hình thành rất sớm, tại Toulouse, do Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền thành lập. Phan Văn Trường, sớm để ý đến Nguyễn Thế Truyền, 12 tuổi, được đem về Pháp học, ở trường Parangon, năm 1910. Hai người sau này lại cùng ở Toulouse từ 1916 đến 1919. Thời gian này Phan Văn Trường ở trong quân đội, làm thông ngôn cho lính thợ và Nguyễn Thế Truyền đang học kỹ sư.
Một mật báo cho biết:
"Hội những người An Nam yêu nước đã được thành lập từ nhiều năm nay do hai nhà cách mạng chống Pháp là Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh. Đó là một nhóm hoạt động rất tích cực.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh (1914-1918), trụ sở Hội này là nơi hẹn của rất nhiều binh lính An Nam và hạ sĩ quan cùng sĩ quan có cấp bực. Từ hồi hai người trên, Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh, bị bắt vì tội chống an ninh quốc gia vào năm 1915, tuy Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh vẫn giữ vai trò lãnh đạo Hội một cách không chính thức, nhưng thực tế thì đã chính là do Nguyễn Ái Quốc" (Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Đông nam Á, Paris, 1983, trang 44)
Mật báo này rất quan trọng, vì nó cho biết:

1- Như vậy cái tên Nguyễn Ái Quấc đã xuất hiện trong khoảng 1914-1918, ít nhất là từ 1918. Tức là trước khi Nguyễn Tất Thành sang Paris rất lâu (Tất Thành sang Paris khoảng tháng 5-6/1919, như trên đã chứng minh).

2- Hội Người An Nam Yêu Nước được thành lập trong khoảng 1914-1918. Như vậy, chỉ có thể ở Toulouse, nơi Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền sống từ 1916 đến 1919. Trong thời gian này Phan Văn Trường đã bị buộc tội xúi giục binh lính An Nam làm loạn, viết đơn xin giải ngũ.
3- Ba người gần Ninh nhất là Lê Văn Thử tác giả Hội kín Nguyễn An Ninh (Nam Việt, 1949), Phương Lan Bùi Thế Mỹ-Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh 1899-1943 (Thúy Phương, Sàigòn, 1970) và Hồ Hữu Tường- 41 năm làm báo (Đông Nam Á, Paris, 1984), đều ghi Nguyễn An Ninh sang Pháp lần đầu năm 1918.
Vậy cái tên Nguyễn Ái Quấc, Quấc chứ không phải Quốc, là dấu ấn của Ninh. Ninh người Nam, chỉ có người Nam, theo Huỳnh Tịnh Của, mới viết Quấc. Trường và Truyền người Bắc, không viết như thế.

4- Bộ Thuộc địa bắt đầu theo dõi Nguyễn Ái Quấc vào khoảng tháng 10/1919. Báo cáo của Jean, tháng 10/1919, có đoạn sau:
"1- Ông Guesde nói phải, có Nguyễn Ái Quốc tên thật là Nguyễn Văn Quốc, người Sàigòn, học ở bên này đã lâu lắm. Song chưa biết tên ấy ở đâu - Phải quen Phan Văn Chường thời mới biết tên ấy được.
2- Xin ông làm ơn hỏi Sureté [An ninh] Paris xem Chường có ở Paris bây giờ không, hay là đi voyage như lời sergent interp. Khương nói và cho tôi chỗ hắn ở (số nhà và phố)" (Thu Trang, trang 54)
Theo báo cáo này, người mật thám tên là Jean, đến tháng 10/1919, chưa xác định được nhân dạng Nguyễn Ái Quốc, lúc thì coi Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn An Ninh [người Sàigòn], khi thì coi Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Thế Truyền [học ở bên này đã lâu lắm], và chưa biết địa chỉ của Hội người An Nam yêu nước là nhà Phan Văn Trường, số 6 villa des Gobelins.

5- Về hoạt động của nhóm, Daniel Hémery viết:
 "Từ mùa thu năm 1919, Nhóm Những Người Yêu Nước có cột viết trên các báo Popupaire, Humanité, Libertaire, báo của CGT, La vie ouvrière và Le Peuple. Họ diễn thuyết, tổ chức những buổi họp mặt công cộng, với chủ đích bảo vệ quyền lợi Đông Dương trong nền văn chương chống thực dân theo cách của những nhà văn Indonésia (Nam Dương) hay Ấn độ. Cuối năm 1919, Nguyễn Ái Quốc, theo lời khuyên của Paul Vigné d'Octon là người hết sức chống chế độ thuộc địa, làm việc ráo riết tại thư viện Quốc gia, sửa soạn ra cuốn sách Les Opprimés (Những kẻ bị đàn áp), có thể là sơ thảo văn bản tương lai Procès de la Colonisation, và nghiền ngẫm dự định dịch các tác phẩm tây phương, như L'Esprit des lois [Vạn pháp tinh lý] sang Quốc ngữ." (Hémery, trang 45)
Câu này xác định hoạt động của nhóm Ngũ Long trên báo chí và diễn thuyết. Nhưng Hémery nhầm Nguyễn An Ninh với Nguyễn Tất Thành:
Trong các bài viết và diễn thuyết được ghi lại, Ninh thường nhắc đến kinh nghiệm cần học hỏi của Ấn Độ, Nam Dương. Ninh chơi thân với Paul Vigné d'Octon, nhóm anarchiste và Ninh viết cho báo Le Libertaire. Ninh viết cuốn La France en Indochine chống Pháp mãnh liệt in năm 1924, mang về Việt nam trong chuyến đi với Phan Châu Trinh, bị tịch thu hết sạch (nhưng có thể đọc bài tiểu luận La France et L'indochine đăng trên Europe số 31, ra ngày 15/7/1925 là thấy rõ nội dung). Ninh dịch Contrat social, (Dân ước) của Rousseau và chắc có ý dịch cả L'Esprit des lois [Vạn pháp tinh lý]của Montesquieu nữa. Còn Tất Thành, cuối năm 1919, mới sang Pháp vài tháng, đang học tiếng Pháp, làm sao mà nghĩ đến chuyện viết sách và dịch sách được?

6- Một mật báo khác:
"Vào những năm 1920-1921, Hội những người An Nam yêu nước" đặt trụ sở tại số 6 Villa des Gobelins. Số người lãnh đạo của Hội này, đã từng làm công việc tuyên truyền chống Pháp một cách rất mạnh nói chung, và đặc biệt chống ông Sarraut (toàn quyền Đông Dương) nói riêng. Những người này cho là ông ta đã gây nên nhiều nỗi đau khổ tại nước họ.
Tháng 10/năm 1921, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Khánh Ký, Lê Văn Thuyết và Hai Tân đã quyết định đề nghị ám sát ông Sarraut (...) Nhưng nhờ sự can thiệp của Phan Châu Trinh mà dự án này không đem ra thi hành" (Thu Trang, trang 45)
Những thông tin trong mật báo này khá đúng, trừ việc Phan Văn Trường định ám sát Sarraut là sai. Phan Văn Trường là người rất thận trọng, ghét bạo lực, hành động công khai, ông đối lập với Sarraut bằng luật pháp và ngòi bút, không bằng bạo lực. Nguyễn Thế Truyền có viết bài đả kích Sarraut, sôi nổi hơn Phan Văn Trường.
Tác giả những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc là ai ?
Trong thư ngày 27/3/23, cụ thân sinh ra ông Nguyễn Thế Truyền khuyên con:"chớ bắt chước Nguyễn Ái Quốc làm báo nói lăng nhăng, chớ chơi với Nguyễn Ái Quốc" (ĐHT, trang19). Như thế, cái tên Nguyễn Ái Quốc, tuy là tên chung, tên ma, nhưng đã thành tên riêng của một người: Nguyễn Tất Thành. Và sự bí mật về việc ai viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quấc gần như toàn diện, đến cả cụ thân sinh ra Nguyễn Thế Truyền cũng không biết con mình viết bài ký tên Nguyễn Ái Quấc!
 
Hồ Chí Minh hiển nhiên nhận mình là Nguyễn Ái Quốc tác giả các bài báo. Nhưng nhiều dữ kiện chứng minh ngược lại.

1- Trước hết, về phiá chính quyền Pháp:
- Ngày 12/9/1923 (sau khi Nguyễn Tất Thành sang Nga), Tổng Thanh Tra quân đội Đông Dương và người Đông Dương gửi thông tri cho Toàn Quyền Đông Dương, có đoạn:
"Les articles publiés sous le nom de Nguyễn Ái Quốc ne sont pas de lui ou ont été tout au moins l'objet des plus sérieures retouches. Cet annamite parle et écrit insuffisament le français pour rédiger tout ce qui paraît sous son nom" (Contrôleur général des troupes indochinois et des Indochinois à Gouverneur général de L'Indochine le 12/9/1923) (Slotfom Série I, Carton II - ĐHT, trang124) (Những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc không phải do y viết hoặc đã được sửa chữa rất nhiều. Khả năng nói và viết tiếng Pháp của tay An Nam này không đủ để viết những bài y ký tên).
- Về phía mật thám Pháp: "Về những bài báo, có một vài mật thám đã ghi là do chính Phan Văn Trường viết và ký tên Nguyễn Ái Quốc" (Thu Trang, trang 95)

2- Bất cứ ai cũng thấy là một người mới học tiếng Pháp như Nguyễn Tất Thành không thể viết những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc. Theo Hoàng Xuân Hãn: "bí danh này có thể là tên tượng trưng của tất cả người Việt (Nguyễn là họ thông thường của nhiều người Việt, chứ không phải chỉ là họ của Tất Thành). Nguyễn yêu nước, ba chữ ấy ứng vào tiếng Pháp: Groupes des patriotes Annamites thấy ký ở dưới truyền đơn: Bản yêu cầu tám điểm. Có lẽ một mặt vì họ Nguyễn mà mật thám coi đó là tên của Nguyễn Tất Thành. Rồi sau Nguyễn Tất Thành cũng mang tên ấy một thời gian mà thôi" (Thu Trang, trang 114)

- Về bản Thỉnh nguyện thư gửi Hội nghị Hoà bình năm 1919:
Mật thám ghi:"Bản yêu cầu gửi cho Hội Nghị Hoà bình là do Phan Văn Trường viết. Những điểm yêu sách đã do Phan Châu Trinh dịch sang chữ An Nam" (Thu Trang, 104)
- Còn Hoàng Xuân Hãn cho rằng: Phan Châu Trinh viết phần Hán văn, Phan Văn Trường dịch ra Pháp văn, Nguyễn Tất Thành làm bài lục bát Việt nam yêu cầu ca. (Thu Trang, trang 9).

Nhưng qua văn bản, chúng tôi có thể xác định: Phan Văn Trường viết thẳng phần tiếng Pháp, vì đây là chủ đề một buổi diễn thuyết của ông năm 1913 (Les revendications indigènes - Những thỉnh nguyện của người bản xứ), như đã nói ở trên. Lời văn trong bài phù hợp với lối viết của Phan Văn Trường: Kín đáo, kiêu kỳ, mỉa mai, thâm thuý. Phan Châu Trinh dịch sang Hán Văn. Nguyễn Tất Thành làm bài thơ (đúng hơn là vè). Bài này, Thu Trang chụp được bản chép tay, cho thấy Tất Thành không biết làm thơ và trình độ quốc ngữ còn kém. (Xem phần phụ bản ở dưới, chúng tôi có trích một đoạn).

3- Hồ Hữu Tường là người đầu tiên cho biết về nhóm Ngũ Long, có vài chi tiết sai nhưng đại thể là đúng: "Khi ra rù, hai cụ được Nguyễn Thế Truyền, học xong ở Toulouse lên hiệp tác. Đầu tháng bẩy cụ Tây Hồ móc nối được với Nguyễn Tất Thành, lúc đó ở London, nên viết thơ gọi về Paris. (...), Đến 1918, nhóm nầy lại được Nguyễn An Ninh ở Sài gòn sang nhập bọn.
Người ngoài cho đó là năm con Rồng, bởi người Việt xưng mình là "con Rồng". Linh hồn của nhóm "Ngũ long" nầy là cụ Phan Châu Trinh.
Và khi chường ra công chúng, nhứt là khi viết báo chống thực dân, thì ý kiến thường do cụ Tây Hồ xướng ra, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh thảo thành tiếng Pháp, và giao cho Tất Thành đem giao cho nhà báo với một bút hiệu chung.
Về cái bút hiệu nầy, có một giai thoại kể ra cũng buồn cười. Lúc ban đầu, các cụ chọn bút hiệu là Nguyễn Ố Pháp. Nghiã là thằng Nguyễn ghét người Pháp. Tên nầy được độc giả Pháp hoan nghinh lắm, vì giọng nói dí dỏm của người Việt nam, lại thêm câu văn của Ninh và Truyền gọt giũa nên có duyên. Độc giả gởi thơ đến nhà báo hỏi Nguyễn Ố Pháp là ai và tên ấy có nghiã gì? Các cụ buộc lòng phải dịch cho ngay tình. Các bạn Pháp phản đối cái tên cực đoan dễ ghét, mà tiếng Pháp gọi là sô vanh (chauvin), và đề nghị đổi đi. Từ đó bút hiệu Nguyễn Ố Pháp bị đổi là Nguyễn Ái Quốc. Về sau bốn vị kia tách ra, tên Nguyễn Ái Quốc còn lại riêng cho Hồ Chí Minh". (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, Đông Nam Á, Paris, 1984, trang 18-19).

Hồ Hữu Tường kể tiếp một giai thoại khác:
 Bộ trưởng Thuộc địa tống trát đòi "Nguyễn Ái Quốc đến cấp tốc tại Bộ thuộc địa gặp ông bộ trưởng", nhưng lại đem trát giao tận nhà Phan Châu Trinh. Cụ Tây Hồ gọi Tất Thành đến giao tờ trát, Tất Thành cầm trát đến gặp ông bộ trưởng Pháp và câu đầu nói xỏ rằng "Nguyễn Ái Quốc là tôi. May mà trát gởi đến nhà chú tôi là Phan Châu Trinh, nên được chú tôi đưa lại. Không thì lạc mất rồi! (...) Ngày ấy, cụ Tây Hồ xỏ Tây tế nhị xong, xuống chợ Mouffetard mua lòng lợn về mời đủ năm Rồng xơi một tiệc "khải hoàn". (Trang 19-20).

Hồ Hữu Tường viết tiếp về chương trình Ngũ Long về nước hoạt động:
"Theo lời cụ Phan Văn Trường thuật lại, thì năm 1922, khi Nguyễn An Ninh sắp sửa về nhà mà sáng lập tờ báo La Cloche fêlée, thì cụ Phan Châu Trinh có đưa ra một phân công, gọi là "ngũ long tề khởi". Tại quê nhà, bầu không khí thực dân và phong kiến còn quá nặng, Ninh lãnh sứ mạng đem tư tưởng dân quyền của Pháp ra mà "dĩ di diệt di". Nên chi báo của Ninh nêu lên đường lối là "cơ quan tuyên truyền cho tư tưởng Pháp" (organe de propagande des idées françaises). Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Thế Truyền thì tựa vào đảng xã hội, sau biến thành đảng cộng sản, nhưng Thành thì thiên tả mà đi vào lao động, Truyền thì đứng trên lập trường "quốc gia mượn thế lực cộng sản để mưu đồ sự giải phóng dân tộc".
Còn hai cụ Phan thì chờ Ninh xung phong, dọn dẹp chông gai bên nhà, hai cụ sẽ về góp sức mà tiến lên gây một phong trào dân chủ. Nhưng mà theo kế hoạch nầy, phân ra thì có, mà tụ lại thì chưa. Năm 1925, quả Ninh có rước hai cụ Phan về xứ. Nhưng sang năm 1926, cụ Tây Hồ lìa trần, Ninh lo tổ chức quần chúng, giao cho cụ Trường đứng mũi chịu sào tờ L'Annam. Rồi Ninh vào tù, cụ Trường ba chìm bẩy nổi, bị án tù, sang Paris chịu vào khám.Còn Tất Thành mang tên chung là Nguyễn Ái Quốc, theo cộng sản luôn, một đi không trở lại.
Nguyễn Thế Truyền vào đảng cộng sản Pháp, mượn phương tiện mà thành lập Việt Nam Hồn, sau đổi lại là Hồn Việt nam, rồi Phục Quốc... " (HHT, sđd, trang 24-25).

Về bản Le Procès de la colonisation française (Bản án chế đô thực dân Pháp)
 
Tác giả là Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Thế Truyền viết tựa. Nhưng thực ra ai viết ?

1- Ngô Văn viết:
"Sau khi Phan Châu Trinh khởi hành về Sàigòn, vào tháng 5 năm 1925 một luận văn châm biếm nẩy lửa do Thư điếm Lao động (Librairie du Travail) phát hành và lập tức bị cấm ở Đông Dương. Đó là tập Bản án chế độ thực dân Pháp (Procès de la colonisation française) ký tên Nguyễn Ái Quốc, nhưng có thể là do Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền viết" (Ngô Văn, trang 42).

2- Trần Dân Tiên chỉ viết một câu ngắn gọn về văn bản này:
"Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển: "Bản án chế độ thực dân Pháp"; quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia. Đầy hăng hái, ông Nguyễn viết cả vở kịch "Rồng tre". (Trần Dân Tiên, trang 37)."
Tại sao Hồ chí Minh không nói rõ là ông đã viết Le Procès trong hoàn cảnh nào? Nhất là lại in sau khi ông đi Nga hai năm. Lý do dễ hiểu: có lẽ Hồ Chí Minh chưa đọc Le Procès khi ông viết những dòng này năm 1947, cho nên ông mới viết câu: "quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia".

 3- Vậy tạm đưa ra giả thuyết: Nguyễn Tất Thành không đủ khả năng tiếng Pháp để viết tác phẩm này. Có thể Nguyễn Thế Truyền đã tập hợp những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc, sửa đổi rồi viết tựa. Văn phong trực tiếp, đả kích mạnh mẽ, không thâm trầm kín đáo như văn Phan Văn Trường, vậy tác giả có lẽ là Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền. Tuy nhiên cần phải khảo sát văn bản các bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc, mới có thể xác định được.

4- Còn vở kịch Rồng tre không biết ai viết (có thể là Nguyễn An Ninh), nhưng chắc chắn không phải Tất Thành, vì chữ Rồng ở đây có ý tự trào, ngạo nghễ ám chỉ đám Ngũ Long, tuy là đồ chơi mà... là Rồng, tức là chơi lối... Rồng (Đế vương). Lại vừa có ý nhạo vua Khải Định là Rồng mà... rồng tre (đồ chơi). Ý nghĩa thâm thúy như thế, nhưng chắc ông Hồ không hiểu rõ, nên mới nhận là mình viết. Bởi nếu ông viết thì không thể viết như thế, khác nào lậy ông tôi ở bụi này: đã tự coi mình là Nguyễn Ái Quốc duy nhất, thì làm sao lại chấp nhận có các con Rồng khác?

Hội Liên hiệp thuộc địa (Union Intercoloniale) và báo Le Paria (Người cùng khổ)

Hội Liên hiệp Thuộc địa -là cơ sở quan trọng thứ nhì, đối với người Việt tại Pháp, sau Hội Người An Nam Yêu nước - quy tụ đại diện những nước nhược tiểu bị Pháp đô hộ, họp lại để cùng chống thực dân. Hội ra tờ báo Le Paria (Người cùng khổ).

Trần Dân Tiên viết về vai trò của ông trong tờ báo này như sau:
 "Để mở rộng việc tuyên truyền đến các thuộc địa, ông Nguyễn và các đồng chí của ông ra tờ báo Người cùng khổ (Le paria) do ông là chủ bút kiêm chủ nhiệm (...) Ông Nguyễn kiêm cả viết, chủ nhiệm, chủ bút, chữa bài, thủ quỹ, xuất bản và liên lạc" (Trần Dân Tiên, trang 44).
Hồng Hà: "Báo Người cùng khổ, cơ quan ngôn luận của vô sản thuộc địa do anh Nguyễn Ái Quốc sáng lập, làm chủ bút kiêm chủ nhiệm, phát hành trong những năm từ 1922 đến 1924" (Hồng Hà, trang 150)
"Anh Nguyễn viết khỏe nhất và nhiều nhất, có số anh viết tới ba, bốn bài. Chính từ đây và từ năm 1922 này, người đọc được thấy những bài báo đầy tính chiến đấu mãnh liệt của anh Nguyễn" (Hồng Hà, trang 156)
Chỉ cần lướt qua tờ Le Paria cũng thấy: đây là tờ báo chống thực dân một cách trào phúng và thâm thúy, kiểu "gậy ông đập lưng ông", phải đủ những điều kiện: có óc châm biếm, có uy-mua Pháp, thâm hiểu văn hoá Pháp và viết tiếng Pháp hay mới viết được. Nguyễn Ái Quấc làm đại diện cho Đông Dương là đúng lắm, vì bút danh Nguyễn Ái Quấc đã nổi tiếng trên báo chí Pháp từ mấy năm nay. Nhưng những bài ký tên Nguyễn Ái Quấc có phải là Tất Thành viết không? Hay chủ yếu vẫn là Thế Truyền, An Ninh, Văn Trường? Trong một bài bênh vực Nguyễn Ái Quấc, Nguyễn Thế Truyền viết: "Tiếng nói của Nguyễn Ái Quốc là tiếng nói của toàn dân Việt Nam" hình như ngụ ý điều đó.

Hội Liên Hiệp thuộc địa (Union intercoloniale) được sáng lập tháng 7/1921, tại Paris. Mỗi thuộc địa có một đại diện trong Ban chấp hành. Trụ sở: số 9 rue Vallette, sau đổi đến số 3 rue Marché des Patriarches.
Tờ báo của hội: Le Paria (Người cùng khổ), ra hàng tháng, dưới sự bảo trợ của nhà văn Henri Barbusse. Báo viết tiếng Pháp, tên in ba thứ chữ: Pháp, Hán và Ả Rập, tồn tại 4 năm, ra được 38 số: số 1, ra ngày 1/4/1922 và số 38 ra ngày 1/4/1926.

Thành phần của Hội khi mới thành lập: Marie Bloncourt, luật sư, đại diện Dahomey (Phi Châu) làm Tổng thư ký. Nguyễn Ái Quốc là đại diện Đông Dương. Jean Baptiste, đại diện Guadeloupe, v.v...
Lúc đầu có độ 200 hội viên. Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh đều là hội viên từ 1922, cả ba đều đã diễn thuyết nhiều lần tại trụ sở của Hội hoặc ở Hội trường hội Bác Học (Salle des Sociétés savantes) đường Danton. Ví dụ, ngày 18/2/1923, Phan Văn Trường diễn thuyết so sánh sự cai trị Việt Nam của Pháp và của Trung Hoa. Nguyễn An Ninh diễn thuyết nhiều lần tại Hội trường hội Bác Học. Ngày 17/10/1924 Nguyễn Thế Truyền diễn thuyết về Đông Dương dưới sự cai trị của Albert Sarraut và Martial Merlin. Mỗi lần Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh diễn thuyết, Phan Châu Trinh đều đến nghe. (Đặng Hữu Thụ, trang 40)

Số 4, tháng 7/1920, báo Le Paria có 2 bài ký tên Nguyễn Ái Quốc, tựa đề La haine des racesLes cilivisateurs. Các bài ký tên Nguyễn Ái Quốc đều có ảnh kèm, bài L'Humanité coloniale trong số 6 (tháng 7/1920) có kèm ảnh những người bị xử bắn, và trong bài báo tác giả mỉa mai ghi: đó là hành động của những con người văn minh.(Thu Trang, trang 144).
Bài đầu tiên ký tên Nguyễn Thế Truyền xuất hiện trên Le Paria, số 9 ra ngày 1/12/1922, tựa đề "Un bolchevick jaune" (Một người Bôn-sơ-vích da vàng), nội dung bênh vực Nguyễn Ái Quấc, bị báo La Dépêche Coloniale (Bản tin thuộc địa) đả kích, trong bài Truyền viết, có câu: "Tiếng nói của Nguyễn Ái Quốc là tiếng nói của toàn dân Việt Nam". (ĐHT, trang 42).

Sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, tên Nguyễn Thế Truyền xuất hiện thay tên Nguyễn Ái Quấc:
Số 21 ra ngày 1/12/1923, bài La vase de Chine (Chiếc bình sứ Trung Hoa), đả kích kịch kiệt bác sĩ Cognacq, nguyên giám đốc học chính Đông dương, về tội hối lộ. Số 22, Nguyễn Thế Truyền nhắc đến lòng yêu nước của Phan Tuấn Phong và Phan Trọng Kiên, anh em ruột của Phan Văn Trường, trong phong trào Đông Du, bị bắt năm 1913. Số 24, đả kích toàn quyền Albert Sarraut đầu độc dân tộc VN bằng rượu và thuốc phiện. Số 27, viết về Phạm Hồng Thái và tiếng bom Sa Điện. Số 28, đả kích Outrey, dân biểu Nam Kỳ, tuyên bố trong quốc hội Pháp không nên áp dụng luật ân xá tại Việt Nam, vì người Việt Nam không biết ân xá là gì. Truyền chê Outrey dốt nát không biết gì vì chín trăm năm trước vua Lý Thánh Tông đã ân xá cho phạm nhân, trong một năm trời làm rét mướt. (ĐHT, trang 43).

Từ ngày 4/11/1923, Nguyễn Thế Truyền thay thế Nguyễn Ái Quốc làm trị sự toà báo. Đầu năm 1925, Nguyễn Thế Truyền trở thành phó tổng thư ký của Hội và chủ bút tờ Le Paria. Trong năm 1925, hầu như số nào cũng có bài của Nguyễn Thế Truyền. Sau số kép 36-37 (tháng 10/1925) toàn bộ viết bài bênh vực Phan Bội Châu, Nguyễn Thế Truyền ra khỏi Le Paria để sửa soạn ra tờ Việt Nam Hồn, tiếng Việt. Không có Nguyễn Thế Truyền, Le Paria chỉ ra được một số chót (số 38, tháng 4/1926) rồi đình bản. (ĐHT, trang 51)

*
Trong thời gian từ 1919 đến 1923, nhóm Ngũ long, qua bút hiệu chung Nguyễn Ái Quấc, rồi từ 1923 đến 1927, chỉ còn lại Nguyễn Thế Truyền ở Pháp, đã tả xung hữu đột, tranh đấu quyết liệt cho sự độc lập và dân chủ của đất nước. Sự phân công có thể như sau: Phan Châu Trinh, lãnh đạo tinh thần; Phan Văn Trường lãnh đạo chính thức. Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh viết nhanh, viết mạnh. Nguyễn Tất Thành phụ trách phần tin tức, việc quản trị Hội Liên Hiệp Thuộc Điạ và cổ động bán báo, in truyền đơn...

Phần lớn những người tham gia kháng chiến chống Pháp, từ Nho học đến Tây học, đều học giỏi nổi tiếng, nhưng đã vất bỏ văn bằng sang một bên để dấn thân. Hồ Chí Minh là một trường hợp đặc biệt, dù con quan, nhưng sớm bỏ học, trình độ quốc ngữ kém (xem bài Việt Nam Yêu Cầu Ca trong phụ bản dưới đây), tiếng Pháp sơ sài, ông đã sống rất cực khổ, làm bồi bếp trong suốt quãng đời thanh niên từ 1911 đến 1919, khi tới Pháp. Tại Pháp cũng chỉ có hai năm ở nhà Phan Văn Trường khu Gobelins là khá, sau này ra Compoint, một khu nghèo nàn thợ thuyền và ông cũng tiếp tục sống rất cơ cực, không kể còn có mặc cảm sâu xa đối với các bạn đồng hành trí thức. Đó là những lý do khiến Nguyễn Tất Thành theo cộng sản, mặc dù ông chưa hiểu rõ lý thuyết cộng sản như thế nào. Sau này, khi lên cầm quyền, việc đầu tiên là ông sẽ bắt mọi người phải kính nể, phải gọi ông bằng Bác, phải cúi đầu trước chân dung ông, và riêng đối với trí thức, ông sẽ dành cho họ những nhục nhằn mà ông đã phải gánh chịu trong suốt cuộc đời niên thiếu.

Phan Khôi, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo... là những người sẽ phải gánh tội của trí thức. Phan Khôi nặng nhất vì đã dám trực tiếp biếm vua: Tội đáng trảm quyết trên phương diện tinh thần. 
 
Hết phần thứ nhất

Phụ bản
 
Revendications du Peuple Annamite
 
Depuis la victoire des Alliés, tous les peuples assujettis frémissent d'espoir devant la perspective de l'être de droit et de justice qui doit s'ouvrir pour eux en vertu des engagements formels et solennels, pris devant le monde entier par des différentes puissances de l'entente dans la lutte de la Civilisation contre la Barbarie.
En attendant que le principe des Nationnalités passe du domaine de l'idéal dans celui de la réalité par la reconnaissance effective du droit sacré pour les peuples de disposer d'eux- même, le peuple de l'ancien Empire Annam, aujourd'hui Indo-Chine Francaise, présente aux Nobles Gouvernements de l'Entente en général et à l'honorable Gouvernement Francais en particulier les humbles revendications suivantes:

1- Amnistie Générale en faveur de tous les condamnés politiques indigènes
2- Réforme de la justice indochinoise par l'octroi aux Indigènes des mêmes garanties judiciaires qu'aux Européens, et la suppression complète et définitive des Tribunaux d'exception qui sont des instruments de terrorisation et d'oppression contre la partie la plus honnête du peuple Annamite.
3- Liberté de presse et d'opinion.
4- Liberté d'associationet de Réunion
5- Liberté d'émigration et de voyage à l'étranger,
6- Liberté d'enseignement et création dans toutes les provinces des écoles d'enseignements techniques et professionnels à l'usage des indigènes.
7- Remplacement du  Régime des lois
8- Délégation permanente d'indigènes élus auprès du Parlement Francais pour le tenir au courant des désidérata indigènes.

Le peuple Annamite, en présentant des revendications ci-dessus formulées, compte sur la justice mondiale des toutes les Puissances et se recommande en particulier à la bienveillance du Noble Peuple Francais qui tient son sort entre ses mains et qui, La France étant une République, est censée d'avoir pris sous sa protection. En se réclament de la protection du Peuple Francais, Le Peuple Annamite, bien loin de s'humilier, s'honore au contraire; car il sait que le Peuple Francais représente la liberté et la justice, et ne renoncera jamais à son sublime idéal de Fraternité universelle. En conséquence, en écoutant la voix des opprimés, le Peuple Francais fera son devoir envers la France et envers l'Humanité.
Pour le Groupe des Patriotes Annamites: Nguyễn Ái Quấc
 
Thỉnh nguyện của dân tộc Annam
 
Từ khi Đồng Minh thắng trận và các cường quốc long trọng cam kết minh bạch trước thế giới quyết tâm tranh đấu lấy Văn Minh chống lại Hung Tàn, tất cả những dân tộc bị áp bức đều nôn nao hy vọng trước viễn ảnh sẽ được sống trong công bằng và luật pháp.
Trong khi chờ đợi nguyên tắc dân tộc tự quyết từ lý tưởng sang thực tế, bằng sự nhìn nhận thực sự quyền thiêng của mỗi dân tộc tự định đoạt lấy số phận mình; Chúng tôi, Thần dân của Đế quốc An Nam ngày trước, nay là Đông Dương Pháp, trình bày với Cao Quyền Đồng Minh nói chung và Kính Quyền Pháp nói riêng, những thỉnh nguyện khiêm tốn sau đây:

1- Ân xá tất cả tù binh chính trị bản xứ.
2- Cải tổ luật pháp Đông dương, bằng cách bảo đảm cho người bản xứ những điều kiện về luật pháp như người Âu châu. Bỏ hẳn các toà án đặc biệt là những công cụ khủng bố và đàn áp thành phần lương thiện nhất của dân tộc An Nam.
3- Tự do báo chí và tư tưởng.
4- Tự do lập hội và hội họp.
5-Tự do di dân và du lịch ra nước ngoài.
6-Tự do giáo dục và xây dựng những trường kỹ thuật và thực nghiệp tại các tỉnh cho người bản xứ.
7- Thay thế Chế độ pháp lý.
8- Có phái đoàn đại diện thường trực dân biểu bản xứ tại Nghị viện Pháp để thông báo những nguyện vọng của người dân bản xứ.

Dân tộc An Nam, qua những thỉnh nguyện trên đây, tin tưởng ở công pháp quốc tế của các cường quốc và đặc biệt trông cậy vào lòng thành của dân tộc Pháp cao quý, đang cầm vận mệnh của chúng tôi trong tay, nước Pháp là một nước Cộng hoà, cầm bằng như đã bảo hộ chúng tôi. Khi thỉnh cầu sự bảo trợ của Dân tộc Pháp, Dân tộc An Nam, không hề tự hạ mình, mà ngược lại còn lấy làm vinh hạnh, vì họ biết Dân tộc Pháp biểu hiện tự do và công bằng, không bao giờ từ khước lý tưởng cao cả: Tứ hải giai huynh đệ. Vì vậy, khi đáp ứng tiếng kêu của người bị áp bức, Dân tộc Pháp không những làm tròn bổn phận đối với nước Pháp mà còn đối với cả Nhân loại.
Thay mặt nhóm An Nam Yêu Nước - Nguyễn Ái Quấc.
(Thụy Khuê dịch)

Việt-Nam yêu cầu ca
Bằng nay gặp hội Giao hoà.
Muôn giân hèn yếu gần xa vui tình.
Cầy rằng các nước Đồng minh
Đem gươm công lí giứt hình giã man
Mấy phen công bố rõ ràng.
Dân nào rồi cũng được trang bình quyền
Việt Nam xưa cũng oai thiêng
Mà nay đứng giới thuộc quyền Lang-sa.
Lòng thành tỏ nỗi sút sa.
Giám xin đại quấc soi qua chút nào.
1 xin tha kẻ đồng-bào.
Vì chưng chính trị mắc vào tù giam.
2 xin phép luột sửa sang
Người Tây người Việt hai phương cùng đồng.
Những toà đặc-biệt bất công
Giám xin bỏ giứt rộng giung dân lành
3 xin rộng phép học hành
Mở mang kỵ nghệ, tập tành công thương
4 xin được phép hội hàng
5 xin nghị ngượi nói bàn tự gio
6 xin được phép lịch giu
Bốn phương mặc sức, năm châu mặc tình.
7 xin hiến-pháp ban hành
Trăm đều phải có thần-linh pháp quyền.
8 xin được cử nghị-viên.
Qua Tây thay mặt giữ quyền thổ giân.
Tám đều cặn tỏ xa gần.
Chưng nhờ vạn quốc công giân xét tình
Riêng nhờ giân Pháp công bình
Đem lòng đoái lại của mình trong tay.
Pháp giân nức tiếng xưa nay.
Đồng-bào, bác ái sánh tày không ai.
Nỡ nào ngảnh mặt ngơ tai.
Để cho mấy ức triệu người bơ vơ.
Giân Nam một giạ ước mơ
Lâu nay tiếng núp bóng cờ tự-gio.
Rộng xin giân Pháp xét cho
Trước phò tiếng nước, sau phò lẽ công.
Gịch mấy chữ quấc âm bày tỏ
Để đồng-bào lớn nhỏ được hay.
Hoà bình may gặp hồi nầy
Tôn sùng công lí, đoạ đày gia-man
Nay gặp hội khải hoàn hĩ hạ
Tiếng vui mừng khắp cả đồng-giân
Tây vui chắc đã mười phần
Lẽ nào Nam lại chịu thân tôi đòi
                  *******
Hẵng mở mắt mà soi cho rõ
Nào Ai-lan, Ấn-độ, Cao-ly.
Xưa, hèn phải bước suy vi
Nay, gần độc lập cũng vì giân khôn
Hai mươi triệu quấc hồn Nam Việt
Thế cuộc nầy phải biết mà lo
Đồng bào, bình đẳng tự gio
Xét mình rồi lại đem so mấy người
Ngổn ngang lời vắn ý giài
Anh em đã thấu lòng nầy cho chưa
Nguyễn Ái Quấc